Page 669 - DIA CHI TUYEN QUANG
P. 669

670                               Từ điển Tuyên Quang


                   được hứng vào một bể chứa làm                  1571. NƯƠNG RẪY

                   từ  thân  cây  gỗ  to  đục  rỗng  để           Phương thức canh tác phát đốt
                   phục vụ sinh hoạt hằng ngày.                khoảnh rừng hay đất trồng khô ở

                                                               miền đồi núi có các dạng thực bì để
                     Hiện nay, nhà sàn ở một số làng           trồng cây nông nghiệp (lúa nương,
                   bản người Tày ở Tuyên Quang như             ngô, sắn, chè, v.v.). Đất phát nương

                   các huyện Chiêm Hóa, Na Hang,               là những nơi rừng già, nhiều cây,
                   Lâm  Bình  vẫn  còn  lưu  giữ  cách         màu  đất  đen,  chất  đất  bở  và  tơi

                   lấy nước dùng truyền thống này.             xốp, nếu chọn được khu đất có cây

                                                               trẩu hoặc đao mọc nhiều để trồng
                     1570. NƯƠNG ÓT
                                                               lúa thì sẽ cho năng suất cao.
                     Thuật  ngữ  dùng  để  chỉ  loại
                                                                  Đồng bào phát nương từ tháng
                   nương  bạc  màu,  không  trồng              Giêng  đến  tháng  3,  tháng  4  đốt

                   cấy  được  trong  tập  quán  canh           nương, đến tháng 5 mới tra hạt.
                   tác nương rẫy của đồng bào Tày,             Trước tiên, dùng dao quắm phát

                   Nùng, Dao, Pà Thẻn...                       những  cây  cỏ,  cây  bụi  cho  khô


                     Trước đây, đồng bào thường khai           trước,  sau  đến  cây  to.  Riêng  đối
                   phá nương rẫy để trồng lương thực,          với  những  giống  cây  có  nhiều
                   hoa  màu.  Sau  một  vài  năm,  khi         nhựa như cây sung, khi đốt nương,
                                                               người Mông có khấn mấy câu nôm
                   đất đã bạc màu, cây trồng không             na như: “Con gà, con lợn, con sóc,

                   phát  triển  được,  đồng  bào  bỏ  đi       con  dúi,  con  chim,...  trên  nương
                   khai phá khu đất khác làm nương             chạy  đi  tôi  đốt,  nếu  không  chạy
                   rẫy. Nương cũ bỏ cho cỏ mọc, gọi là         tôi đốt chết thì tôi không có tội”,

                   nương ót. Một vài năm sau, khi đất          sau  đó  mới  châm  lửa.  Để  tránh

                   đã hồi phục đồng bào lại quay về            không  bị  lửa  cháy  sang  các  khu
                   canh tác trên mảnh nương cũ.                rừng khác, phải vén hết cỏ ở vòng
                                                               quanh để không cho lửa lan sang,
                     Ngày  nay,  đồng  bào  đã  được           đốt từ trên đỉnh nương cho cháy
                   phổ  biến  nhiều  biện  pháp  canh          dần xuống. Đốt nương xong, mỗi

                   tác,  trồng  cấy,  bảo  vệ  rừng  nên       gia đình dựng một lều nhỏ để làm
                   khái  niệm  nương  ót  không  còn           nơi nghỉ khi làm nương và trông

                   phổ biến trong đời sống kinh tế.            coi lúc gần thu hoạch.
   664   665   666   667   668   669   670   671   672   673   674