Page 188 - DIA CHI TUYEN QUANG
P. 188

Từ điển Tuyên Quang                                       189



                   đường  rãnh  hở,  cho  một  viên  bi           399.  CHỮA  BỆNH  KHÔNG

                   sắt  vào  trong  và  úp  2  nửa  bán        DÙNG THUỐC
                   cầu lại rồi hàn kín. Chuông nhỏ                Một trong những phương pháp

                   được buộc thành chùm gồm nhiều              chữa  bệnh  của  y  học  cổ  truyền.
                   chiếc  cộng  lại,  khi  sử  dụng  cầm       Chữa  bệnh  không  dùng  thuốc
                   chùm chuông nhỏ lắc theo nhịp,              phổ  biến  là:  trúc  châm,  cứu,  ôn

                   chùm  chuông  sẽ  phát  ra  nhiều           châm, bấm huyệt, xoa bóp, đánh
                   âm thanh hay. Chuông nhỏ được               cảm, tắm suối nước nóng, v.v..

                   dùng trong hát then (một chùm
                   từ 2 đến 3 chiếc); trong sinh hoạt             Trúc  châm  là  dùng  thân  nứa

                   tâm  linh  của  người  Tày  (một            già  vót  nhọn,  ngâm  nước  sôi
                   chùm khoảng từ 50 đến 70 chiếc);            rồi châm lên huyệt vị để trị các
                                                               bệnh thấp khớp, đau đầu, chân
                   người Mông dùng trang trí buộc
                   vào đầu con ngựa, khi ngựa phi              tay  tê  nhức,  v.v..  Về  sau,  “trúc
                                                               châm”  được  thay  thế  bằng  kim
                   tạo ra tiếng nhạc.
                                                               châm  kim  loại.  Cứu  là  phương
                     398. CHỮ NÔM TÀY                         thức dùng các điếu ngải, hơ lên

                     Loại chữ viết riêng của người             các  huyệt  vị  để  trị  phong  hàn,

                   Tày,  được  sử  dụng  từ  lâu  đời          tê thấp, cảm mạo, hoặc vê bột lá
                   trong cộng đồng dân tộc Tày ở các           ngải thành các mồi cứu đặt lên

                   tỉnh  vùng  Đông  Bắc.  Chữ  nôm            huyệt vị rồi đốt nóng. Ôn châm
                   Tày  được  hình  thành  trên  cơ  sở        là  cách  châm  kim  vào  huyệt  vị

                   chữ Hán.                                    rồi  buộc  mồi  ngải  vào  đốc  kim
                                                               và đốt, nhiệt sẽ truyền theo kim
                     Mặc  dù  không  có  tài  liệu  về         vào huyệt vị giúp tiêu trừ bệnh

                   thời điểm ra đời của loại chữ này,          lý  nhanh.  Hiện  nay,  châm  cứu
                   song  trước  năm  1945  hầu  như            kết hợp với điện châm, từ châm...
                   toàn  bộ  văn  tự  của  người  Tày  ở       Bấm huyệt, xoa bóp trừ bệnh đau

                   Tuyên Quang đều được viết bằng              lưng, nhức mỏi cơ khớp. Bên cạnh
                   chữ  nôm  Tày:  truyện,  thơ,  bài          đó, còn có các liệu pháp khác như:

                   cúng, tài liệu ghi chép về ruộng            thích huyết, giác hơi, cạo gió, bắt
                   đất, văn quan làng, gia phả, văn            xá, v.v.. Ngoài ra, người dân còn

                   bia...  Hiện  nay,  Bảo  tàng  tỉnh         dùng  bạc,  có  nơi  dùng  loại  đá
                   Tuyên Quang đang lưu giữ hàng               đặc biệt để đánh cảm hoặc tắm

                   trăm cuốn sách chữ nôm Tày.                 suối nước nóng giúp điều hòa khí
   183   184   185   186   187   188   189   190   191   192   193