Page 398 - Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1976 - 2005)
P. 398
giáo, giữa quân với dân, giữa quân dân với Đảng. Thành tựu
đó còn bắt nguồn từ truyền thống đoàn kết, yêu nước và cách
mạng, ý chí tự lực, tự cường, cần cù vượt khó, không cam
chịu đói nghèo của nhân dân các dân tộc Tuyên Quang đã
được thử thách và khẳng định qua nhiều năm tháng cam go.
Bên cạnh những thành tựu cơ bản đã đạt được, Tuyên
Quang cũng còn những hạn chế: Kinh tế tuy có phát triển
nhưng không đều và chưa vững chắc. Quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra
chậm. Một số chương trình kinh tế - xã hội triển khai kém
hiệu quả, như chương trình bò sữa, chương trình cây cà phê,
chương trình trồng nhãn thực sinh... Tốc độ tăng trưởng kinh
tế chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Quy mô
nền kinh tế còn nhỏ, công nghiệp và nhiều loại hình dịch vụ,
du lịch chậm phát triển. Thu hút đầu tư, nhất là đầu tư nước
ngoài còn hạn chế. Thu nhập bình quân đầu người so với mặt
bằng chung cả nước còn thấp, đời sống của nhân dân, nhất là
vùng cao, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Hệ thống
chính trị ở cơ sở có nơi còn yếu kém, khuyết điểm; một bộ
phận cán bộ, đảng viên chưa thực sự gương mẫu, sa sút ý chí
phấn đấu.
Thực tiễn chặng đường 30 năm (1976 - 2005) hoạt động
của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang để lại một số kinh nghiệm
quý báu:
Một là, quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, vận dụng một
cách chủ động, sáng tạo, phù hợp với tình hình cụ thể của
tỉnh, lựa chọn những vấn đề trọng tâm, trọng điểm có tính
400