Page 344 - Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1976 - 2005)
P. 344
biến. Tỉnh chú trọng phát triển các trung tâm thương mại,
các chợ để thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá trên địa
bàn, nhất là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Từ năm
2001 đến năm 2005, toàn tỉnh đã sửa chữa, nâng cấp 71 chợ
và mở mới 21 chợ nông thôn, nâng tổng số chợ toàn địa bàn
năm 2005 là 109 chợ, tạo điều kiện cho nhân dân lưu thông
hàng hoá, phát triển sản xuất, tăng nguồn thu ngân sách cho
địa phương. Tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng bình quân
22,5%/năm, đáp ứng đủ nhu cầu vật tư, hàng hóa phục vụ
sản xuất, đời sống nhân dân. Hoạt động xuất, nhập khẩu có
tiến bộ. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 2005 đạt 8,4
triệu USD, tăng bình quân 10,1%/năm. Một số mặt hàng
xuất khẩu như barít, gỗ chế biến tăng nhanh.
Ngành Bưu chính viễn thông được tăng cường đầu tư,
hiện đại hoá các trang thiết bị. Đến năm 2005, 100% số xã
trên địa bàn tỉnh có bưu cục, điểm bưu điện văn hoá, có nơi
đã đầu tư được cả Internet phục vụ nhân dân. Toàn tỉnh bình
quân 4,8 máy điện thoại/100 dân. Mạng điện thoại di động
phủ sóng đến 100% trung tâm các huyện, thị của tỉnh.
Xác định du lịch là ngành kinh tế quan trọng trong cơ cấu
kinh tế, Đảng bộ tỉnh luôn quan tâm phát triển ngành du lịch.
Đã hoàn thành quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Tuyên
Quang đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; gắn phát
triển du lịch với các chương trình kinh tế - xã hội. Hưởng ứng
chương trình du lịch quốc gia “Việt Nam điểm đến của thiên
niên kỷ” do Bộ Văn hoá - Thông tin và Tổng cục Du lịch
phát động, trên cơ sở quy hoạch, tỉnh tập trung đầu tư xây
dựng, nâng cấp Khu du lịch lịch sử cách mạng Tân Trào -
346