Page 139 - Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1976 - 2005)
P. 139
Một số mặt hàng được nâng cao chất lượng như xi măng, cuốc
bàn, máy tuốt lúa, đồ gốm; các sản phẩm chế biến xuất khẩu
như chè, bột barít, hàng mây tre có xu hướng phát triển tốt.
Nhiều công trình thủy điện nhỏ được đưa vào sử dụng. Một
số xí nghiệp có chuyển biến tích cực theo cơ chế sản xuất
kinh doanh mới, nâng cao mức sản xuất của đơn vị như xi
măng, bột kẽm, vật liệu xây dựng số II, Công ty dịch vụ kỹ
thuật thủ công nghiệp, hợp tác xã dệt Tuyên Thành. Giá trị
tổng sản lượng công nghiệp (so với năm liền kề trước đó):
năm 1987 tăng 14,12%, năm 1988 tăng 8,2%; đến năm 1990
đạt 256,6 triệu đồng (theo giá cố định năm 1982), bằng
100,62% kế hoạch, tăng 14% so với năm 1989 (trong đó quốc
doanh vượt 29%, ngoài quốc doanh vượt 2%). Một số sản
phẩm chủ yếu sản xuất vượt kế hoạch là công cụ cầm tay, bột
kẽm, xi măng, đường các loại, ngói nung, gạch chỉ và bột
barít.
Tuy nhiên những năm 1986-1990 sản xuất công nghiệp
của tỉnh vẫn chưa tránh khỏi tình trạng thiếu vốn, dư nợ ngân
hàng lớn, sản phẩm tiêu thụ chậm, công nhân thiếu việc làm.
Kết quả nộp ngân sách cả khối quốc doanh địa phương mới
đạt 92% kế hoạch (3,5 tỷ đồng). Hầu hết xí nghiệp cấp huyện
và một số xí nghiệp cấp tỉnh bị thua lỗ kéo dài, có đơn vị
nguy cơ phá sản.
Trong chương trình xuất, nhập khẩu, công tác xuất khẩu
được coi là mũi nhọn để khai thác tiềm năng. Tỉnh chủ trương
thành lập Công ty liên hiệp chè, tập trung chỉ đạo khai thác thế
mạnh của cây chè, nhận vốn đầu tư của Liên Xô thực hiện kế
hoạch phát triển 1.000 ha chè; đồng thời, nâng quy mô Trạm
141