Page 141 - Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1976 - 2005)
P. 141
ương, viện trợ của các tổ chức quốc tế về vốn, vật tư thiết bị;
huy động nguồn vốn tự có của các xí nghiệp, hợp tác xã để
xây dựng cơ sở vật chất cho sản xuất và đời sống. Nhờ chủ
trương đó, năm 1990 cơ cấu đầu tư xây dựng cơ bản được
1
điều chỉnh hợp lý hơn nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn
huy động. Riêng Tổ chức bánh mỳ thế giới viện trợ không
hoàn lại cho Tỉnh 137.000 USD để đầu tư xây dựng bệnh
viện, hợp tác xã cơ khí và thuỷ lợi. Toàn tỉnh tập trung rà soát
và kiên quyết cắt giảm những công trình chưa thật cấp bách,
dành vốn đầu tư cho các công trình trọng điểm cấp thiết như
thuỷ lợi Nậm Má, nước ăn cho hai thị xã, thuỷ điện Quang
Minh, cầu treo Bắc Mê và một số công trình cấp thiết khác.
Một số đơn vị quốc doanh dùng vốn tự có, vốn tín dụng đầu
tư cải tiến thiết bị, phát triển sản xuất. Nhân dân đã tự bỏ vốn
làm thuỷ điện nhỏ, trồng chè, trồng rừng. Năm 1990, tỉnh
hoàn thành quy hoạch tổng thể 2 thị xã và 8 huyện lỵ.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV,
ngành giao thông vận tải sớm chuyển từ phương thức giao
cho cấp huyện quản lý, khai thác sang tổ chức quản lý chuyên
ngành từ tỉnh đến huyện và xã, bước đầu hoạt động có kết
quả. Hệ thống giao thông được tu sửa, nâng cấp và mở mới.
Nhân dân các huyện Na Hang, Hàm Yên, Yên Sơn cùng với
các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Quản Bạ huy động
3
1.700.000 ngày công, đào đắp 1.120.000 m đất đá mở đường
________
1 . Trong đó: công nghiệp 17,8%; nông - lâm nghiệp 17,1%; giao
thông - bưu điện 16,5%; giáo dục - y tế - văn hoá xã hội 15,6%; nhà ở,
công trình công cộng, quản lý nhà nước 14,6%; thương nghiệp 1,3%;
quân sự 2,4%, v.v..
143