Page 136 - Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1976 - 2005)
P. 136
xuất, thu nhập theo công lao động đạt từ 30-40% sản lượng
khoán, tăng gấp hai lần so với trước. Do làm rõ chính sách
ruộng đất nên khuyến khích nông dân tận dụng đất đai, thâm
canh, tăng vụ thúc đẩy sản xuất. Các hợp tác xã giảm 40-50%
tổng nhân lực của bộ máy quản lý, hoàn thành nghĩa vụ lương
thực với Nhà nước, cơ bản xoá bỏ được tình trạng bao cấp tràn
lan trước đây. Thực hành tiết kiệm có kết quả, giảm tỷ lệ hao
hụt trong vận chuyển xuống còn 3,43%, kiểm tra thu hồi hàng
trăm tấn lương thực cấp sai quy định. Ngoài nguồn lương thực
sản xuất tại chỗ, bằng liên kết, xuất khẩu và tiết kiệm đã tăng
thêm 9.000 tấn lương thực. Tổng sản lượng lương thực quy
thóc năm 1988 đạt 276.800 tấn (trong đó sản xuất tại chỗ đạt
269.800 tấn). Tuy nhiên, bộ máy và sự chuyển biến trong sản
xuất nông nghiệp còn chậm, chưa thực sự vững chắc; lãnh đạo
trực tiếp trong ngành nông nghiệp các huyện chưa thoát khỏi
ảnh hưởng của cơ chế quản lý cũ, tình trạng quan liêu, bao
cấp; tư tưởng tự cung, tự cấp và bao cấp còn nặng nề. Vì vậy,
đến năm 1990 mặc dù diện tích gieo trồng tăng so với năm
1989, song so với kế hoạch năm đạt thấp cả về diện tích, năng
2
1
suất và sản lượng . Về chăn nuôi, đàn gia súc tăng chậm . Tính
chung trong 5 năm (1986-1990), đàn trâu tăng 5,1%; đàn bò
________
1 . Năng suất lúa cả năm bình quân đạt 23,11 tạ/ha (bằng 91,56% kế
hoạch); tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt 262.000 tấn, giảm 21.000
tấn so với năm 1989 (trong đó thóc giảm 15.500 tấn).
2 . Năm 1988, đàn lợn tăng 1,9%, đàn trâu tăng 0,2%, đàn bò chỉ bằng
92,6% năm 1987. Năm 1990, so với kế hoạch toàn tỉnh đàn trâu có
187.000 con (hụt kế hoạch 0,54%), đàn bò 39.000 con (hụt kế hoạch
29,1%), đàn lợn 325.000 con (hụt kế hoạch 4,6%).
138