Page 135 - Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1976 - 2005)
P. 135
Căn cứ điều kiện đất đai, tập quán canh tác và cơ sở vật
chất kỹ thuật của tỉnh, trong 5 năm (1986-1990), ngành nông
- lâm nghiệp của tỉnh đã hình thành hệ thống giải pháp kinh
1
tế - kỹ thuật chuyên ngành và kiên trì đưa hệ thống này vào
vận hành trong sản xuất, bước đầu thu được kết quả, đặc biệt
từ sau khi có Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị và Nghị
quyết số 27 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ. Qua hai năm 1987-
1988, lãnh đạo tổ chức thực hiện đã khẳng định tính đúng
đắn của các biện pháp thúc đẩy sản xuất lương thực, như:
đưa giống lúa nguyên chủng CR203, Bao thai, Mộc tuyền, CH,
CN và các giống ngô ngắn ngày có năng suất cao như TSB2,
MSB4, TB1, v.v. vào sản xuất gắn với tăng vụ ngô ở cả hai
vùng trong tỉnh; từng bước tổ chức lại dịch vụ nông nghiệp,
tiếp tục thực hiện ứng trước phân đạm và đưa vào thực hiện
phương thức bán thẳng, đổi trực tiếp cho nông dân, cung ứng
đạm, lân cho cơ sở; tổ chức soát xét lại đất đai, phân hạng
ruộng đất, ổn định sản lượng khoán và điều chỉnh lại mức
thuế hợp lý; tăng cường củng cố quan hệ sản xuất, chuyển
mạnh các hợp tác xã nông, lâm nghiệp sang hạch toán kinh
doanh.
Các biện pháp trên đã tạo thuận lợi cho việc thực hiện Nghị
quyết số 10 của Bộ Chính trị (khoá VI). Năm 1988, toàn tỉnh
có 112 hợp tác xã áp dụng khoán sản phẩm theo định mức đơn
giá thanh toán gọn; đến cuối năm 1990 có 685 hợp tác xã thực
hiện Khoán 10. Khoán mới bước đầu kích thích người sản
________
1 . Bao gồm hệ thống tiến bộ kỹ thuật, cơ sở vật chất kỹ thuật, hệ
thống dịch vụ kỹ thuật, biện pháp kỹ thuật và hệ thống chính sách.
137