Page 708 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 708
708 ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG
có vị trí kinh tế quan trọng, nên việc khai Từ năm 1949-1950, tỉnh đã chú ý “phát
thác, chuyên chở, chế biến lâm sản được triển các ngành nông nghiệp, tiểu công kỹ
xem là một trong những nghề được chú nghệ, thủ công nghiệp...“ . Tỉnh khuyến
2
trọng dưới thời Pháp thuộc. Tại thị trường khích nhân dân trồng bông, trồng dâu,
lâm sản Việt Trì năm 1944, các sản phẩm nuôi tằm phát triển nghề dệt thủ công
liên quan đến rừng - lâm sản ở Tuyên truyền thống để giải quyết nạn thiếu vải
Quang chiếm 60% tổng số lâm sản từ các mặc. Năm 1949, toàn tỉnh đã trồng được
nơi gửi đến hội chợ. 127 mẫu bông, thu hoạch 3.213 kg tơ tằm.
Song, do bản chất khai thác bóc lột của Nghề trồng dâu nuôi tằm phát triển mạnh
nền kinh tế thuộc địa, nên nhìn chung, tiểu ở các huyện: Yên Bình, Sơn Dương.
thủ công nghiệp Tuyên Quang phát triển Để đưa việc quản lý và tổ chức sản xuất
què quặt, nhiều nghề bị phá sản hoặc mai vào nền nếp, từ năm 1948, tỉnh xúc tiến việc
một; người thợ lao động bị bóc lột nặng thành lập các hợp tác xã (bậc thấp) trong
nề, cuộc sống rất bấp bênh. sản xuất nông nghiệp; hình thành các hiệp
hội, cơ sở sản xuất tập thể trong tiểu thủ
2. Thời kỳ 1945-1975 công nghiệp, thương nghiệp, nhằm xây
dựng nền móng cho nền kinh tế mới.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945,
nhiều ngành thủ công không có điều kiện Năm 1949, ngoài hai hợp tác xã nông
phục hồi và phát triển. Tuy nhiên, để phục nghiệp, một doanh nghiệp được thành
vụ công cuộc kháng chiến, kiến quốc và lập theo chủ trương của Tỉnh uỷ, còn có
nhu cầu của đồng bào các dân tộc trong thêm một xưởng dệt, bốn xưởng giấy, hai
tỉnh, đặc biệt là ở An toàn khu, các nghề xưởng nông cụ, bốn cơ sở chế biến nước
mắm, một xưởng ép dầu, mười lò mật
chính, như: rèn đúc, làm đồ gốm, bện mía ở tỉnh lỵ và các huyện: Yên Bình, Yên
thừng, làm đồ mây tre đan, chế biến lương Sơn, Sơn Dương. Tuy nhiên, số cơ sở hiệu
thực, thực phẩm, đồ uống, dược liệu, v.v. quả hoạt động còn thấp, một số không
vẫn phát triển. Lực lượng tiểu thủ công phát triển được .
3
nghiệp được bổ sung. Ở nhiều nơi, cùng Từ năm 1950 đến năm 1953, cùng với
với việc mở rộng ngành nghề, phục vụ sản việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp,
xuất và chiến đấu, lực lượng tiểu thủ công Tuyên Quang chủ trương xây dựng và mở
nghiệp còn trực tiếp cùng bộ đội rèn đúc rộng hoạt động tiểu thủ công nghiệp, với
vũ khí, may quân trang, bào chế thuốc, đi phương châm phát huy mọi tiềm năng
dân công, vận chuyển hàng hoá... phục vụ và nguồn nguyên vật liệu ở địa phương,
các chiến dịch và các cơ quan Trung ương “phát triển công nghệ nhằm thủ công
đóng trên địa bàn tỉnh . nghiệp gia đình là chính; duy trì và phát
1
1. Trong năm 1948, nhân dân Tuyên Quang đã góp cho Quỹ kháng chiến 1.481.489 đồng (giá gạo
lúc đó là 1.600 đồng/tạ), mua 120.600 đồng công phiếu kháng chiến.
Năm 1949, trong đợt bán gạo cho Chính phủ, phục vụ kháng chiến, đồng bào đã bán cho Nhà nước
139.295 kg thóc, 32.229 kg gạo, mua 550.400 đồng công phiếu kháng chiến (Xem Ban Chấp hành Đảng
bộ tỉnh Tuyên Quang: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang 1940-1975, Sđd, tr.129)
2. Nghị quyết về nhiệm vụ xây dựng kinh tế, tài chính của tỉnh Tuyên Quang, Đệ nhị lục cá nguyệt - 1949
(Tài liệu lưu trữ, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Tuyên Quang).
3. Xem Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1940-1975),
Sđd, tr.132.