Page 757 - DIA CHI TUYEN QUANG
P. 757
758 Từ điển Tuyên Quang
3346/QĐ-BVHTTDL ngày 29-9- của người Sán Dìu, do từng đôi
2009 của Bộ Văn hóa - Thể thao nam nữ, hay một tốp nam, tốp nữ
và Du lịch. hát đối đáp trong ngày hội xuân,
trong lễ cưới, khi lao động sản
1812. SONG - MÂY
xuất, lúc nông nhàn, bên bếp lửa
Loại cây thân leo của rừng hay dưới ánh trăng khuya.
nhiệt đới và cận nhiệt đới, thân
dài và mềm thường được khai Theo truyền thuyết, nguồn gốc
thác, sử dụng làm vật dụng hằng dân tộc Sán Dìu là con cháu của
ngày trong gia đình. Sản phẩm hai chị em sống sót sau nạn đại
từ song, mây thường được làm hồng thuỷ nhờ chui vào một quả
thủ công, là mặt hàng xuất khẩu bầu mà thoát nạn. Để tìm người
rất được ưa chuộng. Song, mây khác về huyết thống xây dựng
có ở hầu hết các địa phương của hạnh phúc, người Sán Dìu đã
tỉnh Tuyên Quang từ lâu đời, là sáng tạo ra những bài ca để chinh
nguồn lâm sản đem lại thu nhập phục bạn tình. Hát soọng cô đã
cho người dân. hình thành từ đó và duy trì đến
ngày nay.
1813. SOỎNG
Soọng cô có hai dạng thức: Hát
(cg. soỏng mòn), vật dụng phục giao duyên gắn với đời sống sinh
vụ cho việc hái lượm, vận chuyển hoạt, lao động sản xuất và hát đối
của đồng bào Tày, là sản phẩm đáp trong lễ hội, lễ cưới. Ở dạng
nghề đan lát của người Tày với thức thứ nhất, nội dung hát vừa
nhiều kích cỡ to, nhỏ khác nhau. để tìm hiểu, có khi để trổ tài: Nếu
Soỏng được đan bằng những hát trong nhà thì phải hát theo
nan giang, tre, nứa chẻ nhỏ với kỹ trình tự, còn khi hát ở ngoài trời
thuật đan nong hai; đáy vuông, có thể ứng tác, lời ca phù hợp với
miệng tròn, đáy có hai thanh hoàn cảnh cụ thể. Ở dạng thức
tre bắt chéo để chịu lực như níp. thứ hai phải hát theo các bài bản
Soỏng dùng đựng, rửa rau, củ, giai điệu bắt buộc. Dù ở dạng
thực phẩm, nên nan thưa như thức nào cũng đòi hỏi người hát
chiếc rổ dưới xuôi, có quai đeo. phải hiểu biết, phải nhanh trí,
thông minh, tài ứng khẩu, giỏi
1814. SOỌNG CÔ đặt lời mới cho các bài ca. Do đặc
Lối hát đối đáp, giao duyên điểm hát đối đáp giao duyên theo