Page 687 - DIA CHI TUYEN QUANG
P. 687
688 Từ điển Tuyên Quang
theo quy định của pháp luật. Tư 4-1972, Phòng Lưu trữ chuyển về
liệu được bảo quản trong hệ thống Hà Tây, tháng 9-1979 chuyển vào
lưu trữ của quân đội 30 năm; sau Thành phố Hồ Chí Minh, tháng
đó được lựa chọn nộp vào Lưu trữ 02-1990 chuyển về Hà Nội.
lịch sử theo quy định của pháp
luật về lưu trữ. 1613. PHÒNG TRUNG ƯƠNG
LIÊN LẠC MIỀN NAM
Từ tháng 8-1966 – 12-1971, Cơ quan trung ương, trực
Phòng đặt trụ sở tại 2 thôn Vĩnh thuộc Chính phủ, được thành lập
Khoái và Khuôn Trú thuộc xã Yên vào tháng 01-1946, có nhiệm vụ
Nguyên, huyện Chiêm Hóa. Thời giúp Chính phủ theo dõi phong
kỳ này, tại Yên Nguyên có Phòng trào kháng chiến, tổ chức chi
Nghiên cứu kỹ thuật và Xưởng viện sức người, sức của cho Nam
in Cơ yếu (thuộc Khu B Ban Cơ Bộ. Từ cuối năm 1949, Phòng
yếu Trung ương). Để bảo đảm bí Trung ương liên lạc miền Nam
mật, cả 3 đơn vị lấy tên chung trực thuộc Tổng cục Cung cấp Bộ
là Đoàn Lâm khẩn, con dấu của Quốc phòng.
đơn vị mang số hiệu 9920. Chỉ
huy chung của đoàn là đồng chí Năm 1947, Phòng di chuyển
Lê Văn Bằng (Trưởng đoàn), các đến khu Đồng Chùa, xã Nhật
đồng chí Chu Văn Hoan và Hoàng Tân (nay là xã Hợp Hòa), huyện
Giang là Phó đoàn. Sơn Dương. Thời kỳ ở Tuyên
Quang, ông Khuất Duy Tri là
Phòng Lưu trữ do đồng chí
Hoàng Giang trực tiếp phụ trách Trưởng phòng, bà Hai Sóc là Phó
phòng. Từ năm 1950, ông Dân
có 2 cơ sở: Phòng Lưu trữ do đồng Tôn Tử giữ chức Phó phòng thay
chí Nguyễn Xuyết phụ trách, ở và
làm việc tại thôn Vĩnh Khoái; Kho bà Hai Sóc.
lưu trữ đặt tại thôn Khuôn Trú, có Phòng Trung ương liên lạc
hầm và nhà kho lưu trữ tài liệu. 2 miền Nam có hai bộ phận: bộ phận
địa điểm trên cách nhau khoảng hành chính tài vụ và bộ phận vận
3 km. Tài liệu của Bộ Quốc phòng tải. Phòng có nhiệm vụ tổ chức
được chuyển từ Hà Nội lên sau tuyến giao thông vận tải từ Việt
khi phân loại được lưu giữ, bảo Bắc vào Liên khu 5. Tất cả các
quản tại đây và phục vụ việc tra văn bản, chỉ thị, nghị quyết của
cứu theo yêu cầu của Bộ. Tháng Trung ương Đảng, Chính phủ,