Page 368 - Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1976 - 2005)
P. 368
đảng viên, vi phạm pháp luật. Tự phê bình và phê bình của
một số cấp uỷ và đảng viên còn yếu, còn tình trạng nể nang,
né tránh, ngại va chạm. Dân chủ trong sinh hoạt Đảng ở một
số tổ chức đảng chưa được đề cao. Công tác cán bộ chưa gắn
luân chuyển với quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng
cán bộ cơ bản, lâu dài. Nhiều cấp uỷ cơ sở chưa chủ động
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, nhất là kiểm tra việc chấp hành
Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của cấp uỷ cấp trên.
Một số cuộc kiểm tra chất lượng, hiệu quả chưa cao.
Đi đôi với công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ tỉnh Tuyên
Quang không ngừng củng cố, tăng cường sức mạnh của hệ
thống chính trị đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
Thực hiện Nghị định số 12 của Chính phủ và chủ trương của
Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh gắn chương trình sắp xếp lại bộ
máy với tinh giản biên chế, nâng cao năng lực quản lý và điều
hành của chính quyền các cấp; tiến hành sáp nhập, thành lập
1
mới một số cơ quan trực thuộc ; rà soát, điều chỉnh chức năng,
nhiệm vụ một số phòng, ban chuyên môn thuộc sở, ngành và
Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã; kiện toàn, củng cố tổ
chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân các cấp.
Các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, bầu cử đại biểu Hội
________
1 . Sáp nhập Uỷ ban Dân số - Kế hoạch hoá gia đình và Uỷ ban Bảo
vệ, chăm sóc trẻ em thành Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em; điều chỉnh
chức năng, nhiệm vụ của Sở Khoa học công nghệ và môi trường và Sở
Địa chính thành Sở Khoa học công nghệ và Sở Tài nguyên môi trường;
thành lập Sở Bưu chính viễn thông và thành lập Văn phòng đoàn đại biểu
Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh.
370