Page 280 - Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1976 - 2005)
P. 280
non, tiểu học, phát triển mở rộng các loại hình mầm non bán
công, dân lập, tư thục tới các thôn bản; tiếp tục mở các lớp
xoá mù và sau xoá mù tại các trường tiểu học theo phương
thức “Một hội đồng hai nhiệm vụ”.
2. Đẩy mạnh tiến độ phổ cập giáo dục trung học cơ sở:
Quy hoạch hệ thống các trường, củng cố phát triển trường lớp
bán trú, các trường trung học phổ thông làm nhiệm vụ dạy bổ
túc tại trường học, xã hoặc trung tâm cụm xã.
3. Nâng cao năng lực quản lý giáo dục - đào tạo: Tổ chức
đào tạo và đào tạo lại để đến cuối năm 2001 có 76,6% giáo
viên mầm non, 88% giáo viên tiểu học và trung học cơ sở đạt
chuẩn, đảm bảo nâng cao chất lượng giáo dục. Sở Giáo dục
và đào tạo xây dựng quy chế thực hiện bổ nhiệm và bổ nhiệm
lại hiệu trưởng, phó hiệu trưởng hai năm một lần. Thực hiện
dạy ngoại ngữ trong các trường tiểu học ở thị xã, thị trấn.
Thành lập, củng cố Hội đồng giáo dục các huyện, thị xã, xã,
phường, thị trấn.
4. Củng cố xây dựng cơ sở vật chất các trường học, bảo
đảm điều kiện cần thiết cho việc dạy và học. “Ngói hoá”
100% các phòng học trong năm học 1999 -2000.
5. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của các cấp
chính quyền đối với công tác giáo dục - đào tạo: Chú trọng
nhiệm vụ xây dựng Đảng trong trường học. Các huyện, thị uỷ
ra Nghị quyết thực hiện chống tái mù chữ và phổ cập giáo
dục trung học cơ sở. Các đoàn thể có trách nhiệm tổ chức,
vận động những người trong độ tuổi đi học. Rà soát, điều
chỉnh bổ sung ban hành cơ chế chính sách, phân cấp giáo dục
- đào tạo phù hợp. Tổ chức thực hiện từ năm học 1999 -
282