Page 761 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 761
Phêìn thûá tû: KINH TÏË - XAÄ HÖÅI 761
quốc doanh và khu vực kinh tế tư nhân các khoản thu, chi được ghi vào dự án
cùng áp dụng chế độ thuế giống nhau, ngân sách, trình tự và thời hạn lập, trách
bao gồm các sắc thuế: thuế doanh nghiệp, nhiệm của các ngành, các cấp trong việc
thuế hàng hóa và thu ở nhiều khâu của xí lập và chấp hành ngân sách; đồng thời quy
nghiệp quốc doanh (cả khâu sản xuất và định rõ ngân sách nhà nước gồm hai cấp
khâu lưu thông). Tuy nhiên, đại bộ phận là Trung ương và địa phương (khu, tỉnh và
tích lũy tiền tệ thực hiện thông qua lợi thành phố trực thuộc Trung ương).
nhuận kém hiệu quả nên đầu năm 1961, Đối với chi ngân sách: Tỉnh thực hiện
Nhà nước cho áp dụng thí điểm chế độ nghiêm túc điều lệ cấp phát vốn xây dựng
“thu quốc doanh” (thay thế thuế doanh cơ bản; điều lệ cấp phát vốn lưu động cho
nghiệp, thuế hàng hóa). Từ năm 1963, các các xí nghiệp quốc doanh và công tư hợp
xí nghiệp công tư hợp doanh không phải doanh; quản lý chặt chẽ các khoản chi hành
nộp thuế công thương nghiệp mà chuyển chính sự nghiệp, như quỹ tiền lương thuộc
sang làm nghĩa vụ tài chính như đối với xí khu vực phi sản xuất; chế độ cấp học bổng
nghiệp quốc doanh. cho học sinh, sinh viên các trường đại học,
Đối với kinh tế tập thể và cá thể: Thực cao đẳng, trung học, dạy nghề; thực hiện
hiện Thông tư số 120/TTg của Thủ tướng điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước và xây
Chính phủ, tháng 12-1963, tỉnh đã cho các dựng chế độ bảo hiểm.
hợp tác xã nông nghiệp và các hộ cá thể Kết thúc kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
nông nghiệp được ổn định nghĩa vụ nộp (1961-1965), Tuyên Quang đạt được nhiều
thuế hằng năm, căn cứ theo sản lượng thành tựu quan trọng trên lĩnh vực xây
thường niên về ruộng đất của từng cơ dựng, phát triển kinh tế - xã hội. Trên lĩnh
sở được xác định năm 1958 và thuế suất vực lưu thông, phân phối: thương nghiệp
bình quân theo biểu thuế năm 1961 để tính xã hội chủ nghĩa phát triển, giải quyết tốt
thuế nông nghiệp cho các năm 1963, 1964, nhiệm vụ cung cấp hàng hóa, thu mua
1965. Việc ổn định mức thuế như trên đã nông sản để thúc đẩy sản xuất. Các hoạt
khuyến khích nông dân khai hoang, phục động tài chính, tiền tệ đáp ứng được nhịp
hóa, thâm canh tăng năng suất, tăng vụ, độ phát triển của nền kinh tế. Tổng mức
tăng sản lượng lương thực. bán lẻ hàng hóa năm 1965 bằng 169,64%
Về hoạt động công thương nghiệp: năm 1960. Thương nghiệp quốc doanh,
Tỉnh thực hiện sửa đổi thuế sát sinh theo năm 1965, đã chiếm tới 93,64% tổng mức
Quyết định số 37/NQ/TVQH của Ủy ban bán lẻ, bằng 249,86% năm 1960; bình quân
Thường vụ Quốc hội, chuyển từ thu 10% mỗi năm thu mua khoảng 19% sản lượng
giá trị lợn, trâu, bò giết thịt thành thu theo lúa, 8% sản lượng ngô, 21% sản lượng sắn,
mức cố định, ấn định cho từng địa phương. 30% số lượng trâu, lợn...
Chế độ thu này có tác dụng chống lạm sát, Trên cơ sở những biện pháp bổ sung,
khuyến khích chăn nuôi vì giết súc vật cải tiến chế độ thu, chi và tăng cường
có trọng lượng lớn thì mức thuế nộp vẫn quản lý ngân sách nói trên, kết quả thu -
bằng súc vật có trọng lượng nhỏ. chi ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh
Về ngân sách nhà nước: Tháng 10- trong những năm 1961-1964 đã có nhiều
1961, Hội đồng Chính phủ ban hành nghị chuyển biến tích cực, vốn tích lũy từ nội
định quy định điều lệ lập và chấp hành bộ nên kinh tế tăng lên nhanh chóng; ngân
ngân sách. Điều lệ quy định rõ nội dung sách nhà nước đều đạt cân đối tích cực;