Page 869 - DIA CHI TUYEN QUANG
P. 869

870                               Từ điển Tuyên Quang


                   của dân tộc Mường), tu lình đeng            màu đen, lông trên đầu và lông

                   (cách gọi của dân tộc Thái); khỉ            quanh mặt màu trắng nhạt. Loại
                   mặt  đỏ  (macaca  aretoides),  hay          này được phát hiện ở huyện Na
                   còn gọi là khỉ cộc, khỉ gấu (cách           Hang,  trong  khu  rừng  hỗn  giao

                   gọi  của  dân  tộc  Việt),  căng  dui       cây gỗ và tre nứa.
                   (cách gọi của dân tộc Tày), căng               Ngoài các loại khỉ, voọc còn có

                   đin, lình càng (cách gọi của dân            cu li nhỏ (nveticebus pygmacus),
                   tộc  Nùng;  khỉ  đuôi  lợn  (macaca         cu  li  lớn  (nveticebus  caucang),
                   nemestrina),  hay  còn  gọi  là  khỉ        sóc (sóc đen, sóc lửa, sóc chuột),

                   xám,  khỉ  tăng  gô  (cách  gọi  của        cầy (cầy vòi mốc, cầy vòi đốm).
                   dân tộc Việt), tu lình (cách gọi của        Các loài này sống trên cây, chủ

                   dân  tộc  Tày),  bạc  khà  (cách  gọi       yếu  ăn  hoa  quả  như  hạt  dẻ,
                   của dân tộc Mường), tu chin (cách           chuối rừng...
                   gọi của dân tộc Thái), khỉ quằng

                   (cách gọi của dân tộc Rục). Hiện               2059. THÚ SỐNG TRÊN MẶT ĐẤT
                   nay,  các  loại  quý  hiếm  ở  Tuyên            Nhóm thú có nhiều loài nhất,
                   Quang như loài khỉ đuôi lợn còn             chủ  yếu  gồm  2  nhóm:  nhóm  ăn

                   rất  ít  ở  Tuyên  Quang.  Các  loài        thực vật và nhóm ăn thịt.
                   khỉ sống trong hang đá, hốc cây

                   hoặc trên cành cây cao có tán lá               Nhóm  ăn  thực  vật  chủ  yếu
                   rậm rạp trong các khu rừng. voọc            là các loài thú ăn cây cỏ, lá cây
                   đen  má  trắng  (trachypithecus             rừng,  nhiều  nhất  là  nai,  hoẵng,

                   francoisi), thuộc họ khỉ, lông đen          sơn dương...
                   tuyền, đỉnh đầu có mào lông đen,               Nai  (cervus  unicolor),  thân

                   có vệt lông màu trắng kéo dài từ            hình to lớn, có con nặng tới 150 kg.
                   má qua tai, sống ở trên cây hay             Hoẵng (muntiacus muntjak), còn
                   trên  hang  vách  đá,  hiện  nay,           gọi  là  con  mang  hay  tu  quang,

                   loài này gần như bị tuyệt chủng             thuộc  họ  nai  (cervidae),  nặng
                   ở  Tuyên  Quang;  voọc  mũi  hếch           khoảng 30 kg. Nai và hoẵng chỉ có

                   (rhinopithe  avunculuscus),  còn            sừng ở con đực (sừng được phân
                   gọi là vẹc bằng lau (cách gọi của           nhánh).  Nai  và  hoẵng  mỗi  năm
                   dân tộc Việt), cà đác (cách gọi của         thay  sừng  1  lần  vào  cuối  xuân

                   dân tộc Tày), mò chèn (cách gọi             hoặc đầu hạ. Sừng mới mọc gọi là
                   của  dân  tộc  Dao),  mò  pàn  (cách        nhung, dùng làm thuốc bổ. Trước

                   gọi  của  dân  tộc  Thái),  có  lông        kia, nai và hoẵng có nhiều ở các
   864   865   866   867   868   869   870   871   872   873   874