Page 747 - DIA CHI TUYEN QUANG
P. 747
748 Từ điển Tuyên Quang
vào nhà. Đám ma do thầy tào chủ Tiếng nói thuộc ngữ hệ Hán -
trì gồm nhiều nghi lễ chịu ảnh Tạng. Di cư đến Tuyên Quang
hưởng sâu sắc của đạo giáo và cách đây khoảng 300 năm.
Phật giáo. Người Sán Dìu canh tác ruộng
khô là chính, ngoài trồng lúa, ngô,
khoai, sắn, v.v. còn trồng cây ăn
quả. Đồng bào ăn cơm tẻ là chính,
hai bữa chính là bữa sáng và bữa
tối. Sau bữa ăn, thường húp thêm
cháo loãng như người Nùng.
Trang phục truyền thống của
phụ nữ gồm áo dài (đơn hoặc kép),
yếm, thắt lưng bằng lụa màu; váy
màu chàm, dài quá gối, gồm hai
mảnh rời chung một cạp; xà cạp
màu trắng. Nam giới ăn mặc như
người Việt, búi tóc, vấn khăn hoặc
đội khăn xếp, áo dài, quần trắng.
Người Sán Dìu ở nhà đất, vận
Nhóm Cao Lan có hát sình chuyển bằng xe quệt hoặc gánh.
ca, lối hát giao duyên nam nữ; Hôn nhân phụ thuộc vào “số
có nhiều điệu múa độc đáo: múa mệnh” và sự quyết định của bố
xúc tép, múa đôi chim cu xuống mẹ, trong đám cưới có một nghi
ruộng, múa phát lối mở đường, lễ đặc biệt là lễ khai hoa tửu. Khi
múa tra lúa, v.v..
1788. SÁN DÌU
Dân tộc. Tên tự gọi là San Déo
Nhín (Sơn Dao Nhân), (cg. Trại,
Trại Đất, Mán quần cộc, Mán váy
xẻ, v.v..).
Ở Tuyên Quang, người Sán
Dìu có 61.343 người (năm 2009).