Page 539 - DIA CHI TUYEN QUANG
P. 539
540 Từ điển Tuyên Quang
1252. LỢN RỪNG
(cg. lợn lòi), tên khoa học: Sus
scrofa, thuộc lớp Thú (Mammalia),
bộ Guốc chẵn (Artiodactyla), họ
Lợn (Suidae). Thân dài, to lớn:
chiều dài 1,35-1,5 m, vai cao 60-
75 cm, trọng lượng 600-750 kg. Lợn rừng
Lông rậm (hơn lợn nhà), ngắn,
màu xám đen, tạo bờm lông chạy quanh khu vực bìa rừng, rừng cây
dài từ gáy đến giữa lưng. Con thấp, lau lách, rừng tre nứa, ven
đực có kích thước lớn hơn con cái. suối cạn, ven đầm lầy v.v.. Hiện
Là động vật ăn tạp, thức ăn đa nay, lợn rừng trở thành hiếm, chỉ
dạng và phong phú gồm: động xuất hiện những nơi ít có người
vật không xương sống, rắn, động qua lại ở các huyện Na Hang,
vật gặm nhấm, xác chết, củ, quả, Chiêm Hóa, Hàm Yên, Yên Sơn,
ngũ cốc v.v.. Thời gian kiếm ăn Sơn Dương. Lợn rừng đẻ 2 lứa
vào sáng sớm, chiều tối, có khi đi mỗi năm, mỗi lứa từ 8 đến 10
ăn đêm. Giỏi đào bới đất để tìm con. Thịt lợn rừng thơm, ngon, có
củ, rễ cây, giun, dế, côn trùng v.v. mùi vị đặc biệt, nhiều nạc, ít mỡ,
để ăn. Mùa khô hạn, nguồn thức giàu chất dinh dưỡng. Nay, người
ăn trong rừng bị hạn chế nhiều, dân đã nhân giống nuôi lợn rừng
chúng tìm về phá hoại nương rẫy. thương phẩm. Trong tự nhiên,
Sống thành đàn trong rừng, có lợn rừng vẫn cần được bảo vệ và
làm tổ, trong một đàn phần lớn là duy trì nòi giống.
lợn cái và lợn con. Con đực trưởng 1253. LỢN TÊN LỬA
thành sống một mình, chỉ nhập Giống lợn được nuôi phổ biến
đàn vào mùa sinh dục. Lợn con ở các huyện vùng cao của Tuyên
mới đẻ màu nâu sọc trắng, khi Quang, mõm dài nhọn, lông xù,
lớn lên dần chuyển màu giống bố, dựng đứng, độ tuổi hơn một năm
mẹ. Tuổi thọ tương đối cao, sống trở lên mà cân nặng chỉ khoảng
đến 20 năm.
10-20 kg. Thịt thơm, săn chắc, khi
Lợn rừng ở Tuyên Quang khá nấu không có nước, bì giòn, chế
phổ biến, trước những năm 60 biến được thành nhiều món: nướng
của thế kỷ XX, chúng sinh sống riềng mẻ, nướng ngũ vị hương,