Page 439 - DIA CHI TUYEN QUANG
P. 439
440 Từ điển Tuyên Quang
vang xa, lảnh lót, song rất khó miệng kèn làm bằng đồng (ống
tạo ra âm trầm, tùy thuộc vào thổi), được gắn bởi 1 tổ sâu cuốn
trình độ của người thổi. Kèn lá lá nhỏ như đầu chiếc đũa ăn
là nhạc cụ dùng để vui chơi giải cơm, ống rỗng, dài 2 cm, đầu thổi
trí trên nương rẫy, phục vụ trong được ép dẹt; phần thân kèn bằng
sinh hoạt văn hóa ở bản, giúp gỗ dài 30 cm, vót tròn có đường
thanh niên nam nữ dân tộc Mông kính 1,5 cm, trong được dùi rỗng,
tỏ tình. trên thân kèn khoét 7 lỗ như lỗ
sáo trúc; phần loa kèn làm bằng
1017. KÈN ỐNG LÚA
đồng loe ra như bát ăn cơm, được
Nhạc cụ của dân tộc Cao gắn thông với thân kèn. Khi thổi,
Lan, làm bằng thân cây lúa tươi ngậm tổ sâu vào miệng, dùng hơi
(thường chọn thân cây lúa nương hút đẩy phát ra âm thanh theo
hoặc lúa nếp ruộng), một giõng làn điệu.
lành lặn để có được ống to, cắt để
một đầu đốt. Đầu đốt này khoét 1019. KÈN PÓ TÈ
một miếng dài 1,5 cm lật lên rồi Nhạc cụ khí hơi của dân tộc
úp lại, đầu kia cắt hở, dùng cọng Cao Lan. Thân kèn được làm
rơm nhỏ hơn thông ống; dùng dao bằng đoạn tre, nứa hoặc gỗ khoét
cắt lỗ nhạc trên thân kèn (từ 2 rỗng, hình hơi thon, dài khoảng
đến 3 hoặc 4 lỗ tùy theo). Ngậm 40 cm. Dọc thân kèn có 4 đến 6 lỗ
kín đầu thân lúa vào miệng, dùng đặt vừa đầu ngón tay. Phía đầu
hơi đẩy sẽ phát ra âm thanh, đặt nhỏ gắn vào một tổ sâu kèn, phần
ngón tay điều chỉnh hơi thổi tạo miệng loe to. Kèn pó tè thường
thành những âm thanh. Cũng có được dùng trong đám tang.
khi ghép hai cọng rơm vào thổi
giống như khèn bè. Kèn ống lúa 1020. KÉO CO
được dùng để hát giao duyên, Trò chơi phổ biến của nhiều
thường vào mùa gặt lúa. dân tộc từ đồng bằng lên miền
núi. Ở Tuyên Quang, trò chơi kéo
1018. KÈN PĂN TỴ co còn liên quan tới phong tục,
(cg. kèn phằn tỵ), nhạc cụ tín ngưỡng, đã từng được Nguyễn
dùng trong đám cưới của người Văn Huyên mô tả trên báo Đông
Dao và đám ma của người Tày. Pháp năm 1934 như sau: “Trước
Kèn cấu tạo gồm 3 phần: phần khi vào hội Kéo co, vị kì mục mỗi