Page 206 - DIA CHI TUYEN QUANG
P. 206
Từ điển Tuyên Quang 207
Cu li
bằng con mèo, sống trong những
lùm cây rậm rạp, ban ngày
ngủ trên cây. Đêm đi kiếm ăn,
thức ăn chủ yếu là côn trùng
và trứng trong các tổ chim. Củ mài
Hiện nay, ở Tuyên Quang, còn cạnh, màu đỏ hồng, thường mang
một số lượng ít loài Cu li nhỏ những củ nhỏ ở nách lá. Rễ củ
(Nycticebus pygmacus) và Cu li đơn độc hoặc kết thành từng đôi,
lớn (Nveticebus caucang). ăn sâu vào đất dài đến hàng mét
Cu li lớn mắt lồi, to; tai nhỏ nên dân gian có câu “củ mài ăn
gần như che khuất bởi lông rậm. xuống”. Vỏ ngoài màu xám, cạo
Đuôi cụt ngắn, sống trên cây. Cu vỏ phía trong là phần thịt mềm
li nhỏ thường sống ở các khu vực màu trắng. Củ mài có thể trồng
rừng lá rộng khô cận nhiệt đới và bằng gốc rễ hoặc dái mài vào mùa
nhiệt đới. Ăn côn trùng, các loài xuân. Củ mài có vị ngọt, tính
hoa, quả và hạt. bình, tác dụng bổ tì vị, tâm phế,
thận, chỉ tả lỵ, thường dùng phối
439. CỦ MÀI hợp với các vị thuốc khác chữa
(tk. khoai mài, hoài sơn), họ suy nhược cơ thể, tiêu chảy. Củ
Củ nâu (Dioscoreaceae). Là loại mài có hai loại: dân gian gọi là củ
thực phẩm ăn giống như các loại mài nếp và củ mài tẻ. Củ mài nếp
củ khoai, củ đậu, đồng thời cũng thường nhỏ hơn, bột mịn và thơm
là một loại dược liệu quý dùng hơn, nhưng trông bề ngoài dây
chữa bệnh trong Đông y. Là loại và hoa, hạt của củ mài nếp và tẻ
thân leo quấn; thân hơi có góc tương tự như nhau.