Page 100 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 100
Những năm 1947-1950, chủ trương của Đảng bộ tập trung cao độ xây
dựng lực lượng vũ trang, thế trận an ninh nhân dân nhằm làm trong sạch địa bàn,
chuẩn bị trận địa, sẵn sàng cùng bộ dội chủ lực đánh địch tấn công là những chủ
trương đúng đắn.
Sau chiến thắng Việt Bắc, về cơ bản Tuyên Quang là vùng tự do, Đảng bộ
kịp thời chuyển hướng, coi nhiệm vụ chủ yếu, xuyên xuốt là xây dựng hậu
phương về mọi mặt, đặc biệt là xây dựng nền kinh tế kháng chiến: "Xây dựng
nền kinh tế kháng chiến tự cấp, tự túc trong tỉnh là một vấn đề chủ yếu trong giai
đoạn kháng chiến quyết liệt hiện tại. Để chống lại sự phong toả của địch, để
nâng cao đời sống cho nhân dân, chủ trương trước hết của ta là tự cấp, tự túc về
1
ăn mặc, về nguyên liệu và sản phẩm cần thiết cho cuộc kháng chiến" . Báo cáo
"Tình hình công tác năm 1952 của Tuyên Quang", Tỉnh uỷ cũng nhấn mạnh:
"Tuyên Quang là một tỉnh tự do, nên đặt công tác kinh tế, tài chính lên hàng đầu,
còn mọi mặt công tác song song tiến hành".
Tuy nhiên, có nơi, có lúc do không sâu sát tình hình, đặc điểm của địa
phương, vận dụng máy móc, chủ trương của Trung ương và áp dụng rập khuôn
cách làm của những nơi khác, Đảng bộ Tuyên Quang đã vấp phải sai sót đáng
tiếc, như vấn đề triển khai xây dựng "xã kiểu mẫu" những năm 1949-1950, vấn
đề triển khai công tác phát động quần chúng giảm tô năm 1953 - 1954.
2. Hết sức coi trọng công tác vận động, giác ngộ cách mạng cho quần
chúng, đặc biệt là thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng. Có hình thức tổ
chức phong phú, thích hợp để huy động được tối đa sức mạnh đoàn kết, yêu
nước và trí tuệ của nhân dân vào sự nghiệp cách mạng.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Thắng lợi của cách mạng phụ
thuộc vào việc quần chúng thấy được vai trò làm chủ của mình và hiểu rõ yêu
cầu, nhiệm vụ của cách mạng mà tự nguyện tham gia. Đối với tỉnh miền núi
nhiều dân tộc anh em chung sống, thắng lợi của cách mạng thực chất là sự thắng
lợi của quá trình vận động quần chúng, trong đó cốt lõi là việc thực hiện chính
sách dân tộc của Đảng.
Thực tế cho thấy, trong thời kỳ gây dựng lực lượng cách mạng ở Tuyên
Quang, các cơ sở Việt Minh hầu hết được bắt đầu bám rễ và phát triển từ vùng
đồng bào dân tộc thiểu số như Dao, Tày, Cao Lan...Khi mà trình độ dân trí còn
lạc hậu, lại là lần đầu tiên họ tiếp cúc với những tư tưởng mới mẻ của Đảng thì
hình thức tập hợp quần chúng như: Kết nghĩa anh em, các hội đồng nghiệp, lễ
cắt tiết gà ăn thề...mà các đảng viên áp dụng, tuy có lúc còn mang màu sắc mê
tín, song đã tỏ ra phù hợp, nhanh cóng ăn nhập và phát huy tác dụng.
Ngay sau khi giành được chính quyền và 9 năm kháng chiến, Đảng bộ đã
biết vận dụng các hình thức đã có, xây dựng và phát triển cao hơn, rộng rãi và
chặt chẽ hơn các tổ chức cứu quốc trong Thanh niên, Phụ nữ, Phụ lão, Nhi đồng,
Trí thức, Hoa kiều, Công giáo để tập hợp quần chúng và hướng hoạt động của
các tổ chức ấy theo đường lối kháng chiến của Đảng. Nằm trong một mặt trận
1 . Nghị quyết về nhiệm vụ xây dựng kinh tế - tài chính của tỉnh Tuyên Quang- Đệ nhị lục cá nguyệt, 1949.
100