Page 175 - TQ - Thu do khu giai phong trong CMT8
P. 175
a) Tiền đề hình thành căn cứ Tân Trào
Trước Cách mạng Tháng Tám, căn cứ Tân Trào có khoảng
2.000 hộ, mật độ dân cư thưa và phân bố không đồng đều. Cư
dân chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, đông nhất là dân
tộc Tày, Dao; tiếp đến là các dân tộc Nùng, Kinh, Cao Lan,
Sán Chí... Mỗi dân tộc có phong tục, tập quán riêng, cư trú
thành từng bản làng riêng hoặc xen với dân tộc khác. Bà con
đoàn kết, giúp đỡ, tôn trọng phong tục của nhau. Đồng bào
chủ yếu sống bằng nghề nông, làm ruộng nước, phát nương và
chăn nuôi; đồng thời khai thác các nguồn lợi từ rừng. Về căn
bản, đó là kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tự cung tự cấp. Bị áp
bức, bóc lột nặng nề, nên khi được giác ngộ, bà con tuyệt đối
trung thành với cách mạng.
Ngay từ năm 1939, nhân dân các xã của hai châu Sơn
Dương và Yên Sơn đã cử người đến tỉnh đường phản đối việc
Tuần phủ Yên Sơn là Phạm Khắc Khánh bắt đi phu làm đường
Bản Cóc (xã Hùng Lợi). Kết quả là nhân dân hai châu không
phải đi phu làm con đường đó nữa.
Tháng 11-1941, một bộ phận Cứu quốc quân II rút sang
phía đông, xây dựng căn cứ mới. Bộ phận này có các đồng chí
Phương Cương, Phúc Quyền, Nhì Phung, Chu Phóng, Hoàng
Thị Ân, Hoàng Thị La, Hoàng Thị Lê, Đường Nhất Quý, do
đồng chí Nguyễn Cao Đàm phụ trách. Các đồng chí giác ngộ
được Đặng Nguyên Minh và một số thanh niên người dân tộc
Dao. Nhờ đó, Cứu quốc quân xây dựng được cơ sở ở các bản
Khuổi Kịch, Khuôn Trạn, Khuôn Mản, Thác Dẫng. Cư dân ở
đây phần lớn là bà con dân tộc Dao, sống theo tập quán du
canh, du cư. Các đồng chí Cứu quốc quân tìm hiểu phong tục,
tập quán của bà con, tuyên truyền giác ngộ họ theo đường dây
họ hàng, thân tộc, với những lễ "Uống máu ăn thề" thiêng liêng,
177