Page 28 - Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1976 - 2005)
P. 28
xuất thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước có tiến bộ, đời sống xã
viên được cải thiện, điển hình là các hợp tác xã Tam Đa,
Vĩnh Lợi (Sơn Dương), Hoàng Khai (Yên Sơn)... Tuy nhiên,
số hợp tác xã khá mới chiếm 30%, còn lại là trung bình và
yếu kém; chế độ quản lý và tổ chức bộ máy còn lỏng lẻo,
phân phối sản phẩm chưa chặt chẽ, nhiều hợp tác xã không
hoàn thành đóng góp nghĩa vụ với Nhà nước.
Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng
cơ bản, giao thông vận tải do gặp khó khăn về nguyên liệu,
năng lượng và vốn nên phát triển chậm. Giá trị tổng sản
lượng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp cả hai năm đều
đạt thấp so với kế hoạch (năm 1977, chỉ đạt 89% kế hoạch;
năm 1978 chỉ đạt 80% kế hoạch). Một số sản phẩm đạt và
vượt kế hoạch như điện, bột kẽm, giấy viết, cơ khí, sành sứ,
khai thác gỗ tròn, nứa cây, nguyên liệu giấy, chế biến gỗ.
Hai năm 1977-1978, vốn đầu tư xây dựng cơ bản đạt
60.000.000 đồng, trong đó tập trung cho công nghiệp,
thủy lợi, lâm nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải,
nhưng tiến độ chậm, nhiều công trình không khởi công
được theo kế hoạch. Khối lượng vận chuyển hàng hoá và
vận chuyển hành khách mỗi năm chỉ đạt trên 70% kế
hoạch.
Trong tình hình kinh tế bắt đầu có những khó khăn...
nhất là lĩnh vực tài chính, giá cả, phân phối lương thực,
thực phẩm cho cán bộ, công chức đòi hỏi cần có sự chỉ đạo
sát sao và tổ chức thực hiện chặt chẽ hơn. Ngày 16-02-
1978, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã ra Nghị quyết số 13-
NQ/TU thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 04-01-
30