Page 26 - Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1976 - 2005)
P. 26
rừng và đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm trường, đất phục
vụ quốc phòng và đất hợp tác xã. Trồng cây gây rừng từng
bước xanh hóa đồi hoang, đất trống, trước mắt là trồng cây
nguyên liệu giấy, sợi (quy mô lớn); trong ba kế hoạch 5 năm
phải trồng 20 đến 25 vạn ha. Kết hợp chặt chẽ với trồng
rừng phòng hộ. Khai thác chế biến lâm sản phải đáp ứng
cho nhu cầu ngày càng cao của Trung ương và địa phương;
phấn đấu hàng năm đảm bảo 2 vạn tấn nguyên liệu giấy; 2
3
vạn Ste củi; 9 vạn m gỗ tròn; 1,2 triệu cây tre và 8 triệu cây
nứa.
Đến cuối năm 1978, sản xuất nông - lâm nghiệp đã phát
triển một bước. Diện tích gieo trồng đạt 123.000 ha bằng
100% kế hoạch (tăng 18.120 ha so với năm 1976). Sản lượng
lương thực quy thóc đạt 196.000 tấn, tăng 7.500 tấn so với kế
hoạch, tăng 6.000 tấn so với mục tiêu Đại hội Đảng bộ đề ra
và tăng 41.900 tấn so với năm 1976, là năm có tổng sản
lượng lương thực cao nhất so với những năm trước đó. Tuy
nhiên, cây công nghiệp và cây thực phẩm đạt thấp do thiếu
giống, thiếu chính sách khuyến khích phát triển sản xuất. Đàn
trâu có 151.000 con, đạt 98% kế hoạch, tăng 1,37% so với
năm 1977; đàn bò có 24.300 con, đạt 95% kế hoạch, tăng
0,14% so với năm 1977; đàn lợn có 200.000 con, đạt 93% kế
hoạch, giữ mức của năm 1977. Song, phát triển chăn nuôi
vẫn mang tính tự phát; chăn nuôi tập thể yếu kém; trồng rừng
mới đạt 15.300 ha.
Để mở rộng diện tích canh tác, phục vụ chương trình định
canh, định cư và xây dựng vùng kinh tế mới, tỉnh đã chỉ đạo
đẩy mạnh việc khai hoang ở những nơi còn nhiều tiềm năng
28