Page 217 - Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1976 - 2005)
P. 217
tư công nghệ chế biến nhằm tăng sản lượng chè thương phẩm
có chất lượng cao, chiếm lĩnh được thị trường trong và ngoài
nước. Diện tích cây sả ổn định theo hướng tập trung thâm
canh tăng năng suất, từng bước cải tiến công nghệ nồi lò
chưng cất từ đun bằng củi sang đun bằng than, góp phần bảo
vệ rừng. Một số cây ăn quả có giá trị kinh tế cao bước đầu
được phát triển theo quy hoạch vùng sản xuất hàng hoá như:
cam, quýt ở Hàm Yên, Chiêm Hoá; nhãn, vải, hồng, na ở ven
sông Lô, sông Phó Đáy thuộc huyện Yên Sơn, Sơn Dương,
thị xã Tuyên Quang; mơ, mận ở Na Hang... Bước đầu thực
hiện chương trình trồng 5.000 ha cà phê được tập trung chỉ
1
đạo, song cũng có những khó khăn, thiếu sót .
Sản xuất lâm nghiệp là một hướng làm giàu của tỉnh và
của từng hộ gia đình được Đảng bộ đặc biệt chú trọng. Các
cấp uỷ đảng, chính quyền có nhiều chương trình, kế hoạch,
biện pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh công tác trồng rừng, phủ
xanh đất trống, đồi núi trọc. Công tác quản lý, khoanh nuôi,
bảo vệ, tái sinh rừng tự nhiên được thực hiện; phong trào toàn
dân bảo vệ rừng và tài nguyên rừng được phát động rộng rãi.
Đã chuyển toàn bộ vốn khai hoang sang đầu tư cho khoanh
nuôi, bảo vệ rừng thông qua hợp đồng kinh tế với hộ gia
đình. Công tác giao đất, giao rừng và nhiệm vụ bảo vệ rừng
________
1 . Thực hiện chỉ tiêu trồng 5.000 ha cà phê do Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ XI đề ra, đến năm 1995, sau hai năm trồng thí điểm theo vùng tập
trung, toàn tỉnh đã có khoảng 800 ha cà phê... Song do chưa nghiên cứu
kỹ, thiếu kiểm tra, tổng kết rút kinh nghiệm, chưa thực hiện đúng quy
trình kỹ thuật… nên chương trình cây cà phê sau đó không đạt kết quả
như mong muốn, gây tổn thất cho cả Nhà nước và người trồng.
219