Page 216 - Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1976 - 2005)
P. 216

quyết cơ bản vấn đề lương thực trên địa bàn tỉnh, khắc phục
             được  nạn  thiếu  đói  lúc  giáp  hạt.  Chăn  nuôi  tiếp  tục  phát
                  1
             triển . Một số cây công nghiệp, cây ăn quả có giá trị kinh tế
             cao,  phù  hợp  với  điều  kiện  sinh  thái  được  phát  triển  theo
                                              2
             vùng sản xuất hàng hoá tập trung . Diện tích mía giống mới
             phát triển nhanh theo vùng quy hoạch; năm 1993, tỉnh quyết
             định xây dựng nhà máy đường công suất 750 tấn mía/ngày,

             gắn với quy hoạch vùng nguyên liệu; từng bước đưa giống
             mía mới có năng suất và hàm lượng đường cao vào thay thế
             giống mía bị thoái hoá ở địa phương. Cây chè được ổn định
             diện tích để tập trung cải tạo, thâm canh, tăng năng suất; đầu

             ________
                 1 .  Đàn  trâu  tăng  bình  quân  hàng  năm  5,6%,  bò  tăng  18,4%,  lợn  tăng
             5,7%; số lồng cá năm 1995 tăng gần 2,5 lần so với năm 1992. Đến tháng 7-
             1995, toàn tỉnh có tổng đàn trâu 11,87 vạn con; bò 1,7 vạn con; dê 2,08 vạn
             con; lợn 21,15 vạn con; đàn gia cầm 1,58 triệu con, bình quân 5-10 con/hộ.
             Diện tích ao hồ nuôi cá là 1.260 ha và có 968 lồng cá với sản lượng đạt từ 600
             đến 800 kg/lồng.
                 2 . Đến hết năm 1995 toàn tỉnh có trên 1.700 ha mía giống mới, tăng
             19% so với năm 1993, đủ giống nhân trên diện rộng chuẩn bị đảm bảo
             nguyên liệu sản xuất cho các nhà máy đường. Có 4.588 ha chè (trong đó
             quốc doanh 1.758 ha, còn lại của các hộ nông dân), tập trung chủ yếu ở
             các huyện Yên Sơn, Sơn Dương, Hàm Yên; một số nơi đạt năng suất búp
             tươi 50 tạ/ha; sản lượng chè búp tươi đạt 16.000 tấn, chè thương phẩm
             3.160 tấn. Có 1.207 ha sả, chủ yếu ở Hàm Yên và Chiêm Hoá. Sản lượng
             tinh  dầu  năm  1995  đạt  trên  240  tấn;  do  có  thị  trường  tiêu  thụ  tốt,  giá
             tương đối cao nên cây sả tiếp tục có chiều hướng phát triển.
                 Cây lạc và cây đậu tương phát triển mạnh, sản lượng lạc bình quân
             hàng năm tăng 18%, đậu tương tăng 25,6%. Diện tích cây ăn quả tăng
             nhanh, năm 1995 so với năm 1991 tăng 122%; toàn tỉnh có khoảng 745
             ha cây ăn quả, trong đó cam, quýt chiếm 556 ha.


             218
   211   212   213   214   215   216   217   218   219   220   221