Page 612 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 612
612 ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG
cho 1.390 mẫu ruộng; lớn nhất là mương 6.472 nhân khẩu của 3 xã An Tường, Kim
Kim Thắng (thuộc Kim Phú, Yên Sơn ngày Thắng và Ỷ La thoát khỏi nạn thiếu đói
nay), hoàn thành bước 1 vào tháng 6-1950, hằng năm.
dài 6,5 km, dẫn nước tưới cho hàng trăm Từ năm 1950 đến năm 1952, toàn tỉnh
mẫu ruộng... Do làm tốt công tác thuỷ lợi, đã hoàn thành 29 công trình thuỷ lợi lớn
cải tiến kỹ thuật canh tác, diện tích lúa nhỏ, đảm bảo tưới được 2.434 mẫu ruộng.
chiêm, cây lương thực, hoa màu và chăn Riêng năm 1951, xây 11 mương phai tưới
nuôi đã không ngừng mở rộng. Nhờ vậy cho hơn 2.000 mẫu ruộng, tu bổ 6 mương
năm này mặc dù lũ lụt, hạn hán kéo dài, phai nhỏ tưới cho 800 mẫu ruộng.
nhưng diện tích lúa chiêm vẫn tăng 2.664 Năm 1953, nông dân các huyện Chiêm
mẫu; diện tích ngô, khoai tăng 200%; Hoá, Hàm Yên, Yên Sơn và Sơn Dương
các loại gia súc, gia cầm tăng cao; 1/3 số đã sửa chữa, làm mới 361 mương và cọn
hộ nông dân huyện Chiêm Hoá nuôi cá nước..., Vụ mùa năm 1954, riêng vùng hạ
ruộng; việc trồng sắn, bông, dâu tằm phát huyện Sơn Dương đã làm thêm được 616
triển... Với những thành tựu trên, Tuyên cọn nước, đảm bảo nước tưới cho hàng
Quang đã trở thành lá cờ đầu của Liên khu nghìn mẫu ruộng .
2
Việt Bắc về sản xuất nông nghiệp . Sự chú trọng, phát triển thuỷ nông đã
1
Những thành tựu bước đầu của thuỷ góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp,
lợi Tuyên Quang trong những năm 1947- diện tích, năng suất lúa, cây lương thực,
1950, đã góp phần thúc đẩy sản xuất nông nhất là mía, lạc, vừng, đỗ tăng lên.
nghiệp, ổn định đời sống nhân dân. Vụ mùa năm 1951, toàn tỉnh cấy được
Từ năm 1950, trong khi thực hiện chủ 51.793 mẫu, thu được 36.255.100 kg thóc.
trương không ngừng đẩy mạnh sản xuất Từ năm 1952 đến năm 1954, diện tích lúa
nông nghiệp, nâng cao năng suất, sản chiêm hằng năm đều tăng lên: năm 1952
lượng lúa và cây lương thực, công tác thuỷ tăng hơn năm 1951 là 6.775 mẫu; năm 1953
lợi đã được chú trọng đẩy mạnh. tăng hơn năm 1952 là 5.769 mẫu; năm 1954
Để phòng, chống hạn, úng ngập, đảm tăng hơn 1953 là 3.350 mẫu... Mặc dù thiên
bảo nước tưới tiêu cho ruộng và nương tai kéo dài nhưng vụ mùa năm 1954, toàn
lúa, hoa màu và cho chăn nuôi, đồng bào tỉnh vẫn cấy hết diện tích 58.375 mẫu và
các dân tộc đã làm thêm nhiều cọn nước, tăng năng suất 15% so với vụ mùa trước.
gầu sòng, đồng thời xây nhiều cống, đập Thủy lợi đi đôi với vận dụng kỹ thuật
nước, mương phai mới. Một trong những sản xuất mới nên nhiều địa phương dần
công trình thuỷ lợi lớn nhất của tỉnh và dần đã phát triển sản xuất nông nghiệp
cũng là công trình thuỷ lợi tiêu biểu của theo hướng toàn diện, xóa bỏ thói quen
toàn Liên khu Việt Bắc là mương phai Kim chỉ độc canh cấy lúa; chú trọng trồng cây
Thắng (khởi công năm 1949, hoàn thành công nghiệp, góp phần thúc đẩy ngành
năm 1951) dài 9km, đảm bảo nước tưới tiểu thủ công nghiệp; chăn nuôi gia cầm
cho 545 mẫu lúa chiêm, góp phần giúp và nuôi cá.
1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1940-1975), Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.131-132.
2. Xem Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1940-1975),
Sđd, tr.165-168.