Page 609 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 609

Chương I
                                                        Chương I

                             DÂN SỐ VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ
                                                    THỦY LỢI





                I- THỜI KỲ PHONG KIẾN (TRƯỚC NĂM 1884)             “Người  Mèo”,  “người  Đại  Bản,  Tiểu
                                                               Bản”  chọn  các  đỉnh  núi  cao,  rất  cao,  có
                   1. Quá trình giải quyết vấn đề thuỷ lợi
                                                               suối nước chảy qua thì họ làm nhà để ở.
                   Cho đến nay, chưa có tài liệu nào ghi           “Nói về phong tục, việc sản xuất thì
               chép  đầy  đủ,  hệ  thống  về  quá  trình  xây   dân ở đây dựa vào núi mà làm ruộng, bám
               dựng và phát triển thuỷ lợi ở Tuyên Quang       hang núi mà làm nhà ở”. “Tuỳ theo địa thế
               từ ngày thành lập nước đến thế kỷ XIX.          mà khai khẩn ruộng nương, lại tuỳ địa thế

                   Nhưng  từ  xa  xưa,  đồng  bào  các  dân    mà làm nhà ở...”.
               tộc Tuyên Quang đã biết đắp đê, đập; xây            Sách  cũng  miêu  tả  cách  làm  và  giá
               cống; khơi đào sông, ngòi, suối để thoát        trị sử dụng của cọn nước: “Cách làm xe
               nước  chống  lũ,  úng  ngập;  đào,  vét  hồ,    dùng nước suối giã gạo: Xe có hai cột trụ
               ao để giữ nước chống hạn; biết lợi dụng         to, bằng hai cây gỗ dựng đứng giữa dòng
               dòng nước tự chảy, sức nước để phục vụ          suối... khoảng dưới thêm cột có đục một lỗ
               sản xuất và đời sống, làm giảm nhẹ hoặc         tròn xuyên qua đó là trục bánh xe, có hai
               thay sức lao động của con người, như đắp        vành bánh xe, bánh xe làm bằng tre; chày
               đập  ngăn  dòng  chảy  cho  nước  dâng  lên     giã gạo để ở ngoài chỗ đặt bánh xe. Người

               để đưa nước vào chân ruộng cao; bắc ống         ta mở một hố, cạnh hố để gạo đúng vào
               dẫn bằng tre, nứa vượt khe ở nơi địa hình       chỗ chày giã bổ xuống. Khi nước chảy thì
               đồi núi; dùng sức nước để quay bánh xe          bánh xe tự quay, chày theo đó giơ lên bổ
               cọn nước đưa nước lên cao để giã gạo hay        xuống làm cho gạo trắng”.
                                                                   “...  Xe  cuốn  nước  cũng  tương  tự  xe
               phục vụ chăn nuôi, trồng trọt.                  cối giã gạo nhờ sức nước. Các ống bương
                   Sách Tuyên Quang tỉnh phú của Đặng          múc  nước  được  gắn  vào  thành  bánh  xe

               Xuân Bảng đã ghi lại vài nét truyền thống       bốn mặt đặt dưới khe, khi nước chảy bánh
               về  việc  sử  dụng  nguồn  lợi  của  nước  để   xe tự quay, các ống nước theo vành bánh
               phục  vụ  đời  sống  và  sản  xuất  của  nhân   xe được nâng lên cao, rồi rót xuống máng
               dân Tuyên Quang trong lịch sử như sau:          hứng ở trên cao dẫn nước đi tưới được vài
               “Ruộng nương thường dựa vào núi rừng,           khoảnh  ruộng.  Nước  chảy  xe  chạy  ngày
               nơi có suối thì canh tác, gặp khi lũ lụt chỉ    đêm,  không  dùng  đến  sức  người.  Các
               một hai ngày là nước rút”.                      châu huyện đều có loại “cọn nước” này” .
                                                                                                        1


                   1. Đặng Xuân Bảng: Tuyên Quang tỉnh phú, viết năm Tự Đức thứ 14 (1860). Bản chữ Hán lưu tại Viện
               Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A 964. Bản dịch của Ngô Thế Long, lưu tại Trung tâm UNESCO Thông
               tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam, tr.34b, 32b, 30b.
   604   605   606   607   608   609   610   611   612   613   614