Page 565 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 565
565
Phêìn thûá ba: LÕCH SÛÃ
và kiên trì đưa hệ thống này vào vận hành thực cấp sai quy định. Ngoài nguồn lương
trong sản xuất, bước đầu thu được kết quả. thực sản xuất tại chỗ, bằng liên kết, xuất
Qua 2 năm (1987-1988) lãnh đạo, tổ chức khẩu và tiết kiệm đã tăng thêm 9.000 tấn
thực hiện, đã khẳng định tính đúng đắn lương thực. Tổng sản lượng lương thực
của các biện pháp thúc đẩy sản xuất lương quy thóc năm 1988 đạt 276.800 tấn (trong
thực, như: đưa giống lúa nguyên chủng, đó sản xuất tại chỗ đạt 269.800 tấn). Tuy
CR203, Bao thai, Mộc tuyền, CH, CN và nhiên, bộ máy và sự chuyển biến trong sản
các giống ngô ngắn ngày có năng suất cao xuất nông nghiệp còn chậm, chưa thực sự
như TSB2, MSB4, TB1,v.v... vào sản xuất vững chắc; lãnh đạo trực tiếp trong ngành
gắn với tăng vụ ngô ở cả hai vùng trong nông nghiệp các huyện chưa thoát khỏi
tỉnh; từng bước tổ chức lại dịch vụ nông ảnh hưởng của cơ chế quản lý cũ, còn
nghiệp, tiếp tục ứng trước phân đạm và tình trạng quan liêu, bao cấp; tư tưởng tự
mở mới phương thức bán thẳng, đổi trực cung, tự cấp và bao cấp còn nặng nề. Vì
tiếp cho nông dân; cung ứng phân đạm, vậy, đến năm 1990, mặc dù diện tích gieo
phân lân cho cơ sở; tổ chức soát xét lại đất trồng tăng so với năm 1989, song so với kế
đai, phân hạng ruộng đất, ổn định sản hoạch năm đạt thấp cả về diện tích, năng
lượng khoán và điều chỉnh lại mức thuế suất và sản lượng . Về chăn nuôi, đàn gia
1
hợp lý; tăng cường củng cố quan hệ sản súc tăng chậm . Tính chung trong 5 năm
2
xuất, chuyển mạnh các hợp tác xã nông - (1986-1990), đàn trâu tăng 5,1%, đàn bò
lâm nghiệp sang hạch toán kinh doanh. giảm 18,7%, đàn lợn tăng 0,5%, diện tích
Năm 1988, toàn tỉnh có 112 hợp tác xã thả cá giảm trên 7%. Việc áp dụng tiến bộ
áp dụng khoán sản phẩm theo định mức kỹ thuật vào chăn nuôi còn ít, thiếu các
đơn giá thanh toán gọn; đến cuối năm chính sách khuyến khích phát triển chăn
1990 có 685 hợp tác xã thực hiện khoán 10. nuôi; công tác thú y phòng dịch bệnh tuy
Khoán mới bước đầu kích thích người sản có tiến bộ, nhưng ở một số nơi vẫn xảy ra
xuất, thu nhập theo công lao động đạt từ dịch bệnh gây thiệt hại cho sản xuất.
30- 40% sản lượng khoán, tăng gấp 2 lần Tỉnh chủ trương chuyển việc sản
so với trước. Do làm rõ chính sách ruộng xuất nghề rừng từ khu vực quốc doanh
đất nên khuyến khích được nông dân tận là chính sang cho các thành phần kinh tế
dụng đất đai, thâm canh, tăng vụ thúc ngoài quốc doanh là chính. Lấy khoanh
đẩy sản xuất. Bộ máy quản lý hợp tác xã nuôi, bảo vệ, tu bổ, trồng rừng là chủ yếu
giảm 40-50%, hoàn thành nghĩa vụ lương và có kết hợp với khai thác khi điều kiện
thực với Nhà nước, cơ bản xóa bỏ được cho phép. Thực hiện các biện pháp đóng
tình trạng bao cấp tràn lan trước đây. Thực cửa khai thác rừng ở một số khu vực để tái
hành tiết kiệm có kết quả, giảm tỷ lệ hao sinh và bảo vệ rừng đầu nguồn; tiến hành
hụt trong vận chuyển xuống còn 3,43%, phân cấp cho huyện quản lý lâm trường
kiểm tra thu hồi hàng trăm tấn lương gắn với xác định quy mô lâm trường thích
1. Năng suất lúa cả năm bình quân đạt 23,11 tạ/ha (bằng 91,56% kế hoạch); tổng sản lượng lương
thực quy thóc đạt 262.000 tấn, giảm 21.000 tấn so với năm 1989 (trong đó thóc giảm 15.500 tấn).
2. Năm 1988, đàn lợn tăng 1,9%, đàn trâu tăng 0,2%, đàn bò chỉ bằng 92,6% năm 1987. Năm 1990,
so với kế hoạch, toàn tỉnh có đàn trâu 187.000 con (hụt 0,54%), đàn bò 39.000 con (hụt 29,1%), đàn lợn
325.000 con (hụt 4,6%).