Page 415 - Chien thang VB-TD 1947
P. 415
TUYÊN QUANG VỚI CHIẾN THẮNG VIỆT BẮC - THU ĐÔNG 1947
3. Xây dựng hậu phương, căn cứ địa tạo chỗ dựa vững
chắc cho cuộc kháng chiến
Sớm nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của hậu phương,
căn cứ địa, ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, chủ
tịch hồ chí Minh đã giao cho đồng chí Phạm Văn Đồng và một số
cán bộ ở lại Việt Bắc tiếp tục củng cố căn cứ địa Việt Bắc làm chỗ
dựa cho cách mạng. chuẩn bị cho Toàn quốc kháng chiến, cuối năm
1946, Trung ương tiếp tục cử đồng chí nguyễn Lương Bằng trở lại
Việt Bắc cùng nhân dân và lực lượng vũ trang trên địa bàn đẩy
mạnh công tác xây dựng căn cứ địa. Tiếp đó, Trung ương Đảng lập
các đội công tác đặc biệt do đồng chí Trần Đăng ninh phụ trách làm
nhiệm vụ nghiên cứu việc di chuyển, chọn địa điểm an toàn cho cơ
quan Trung ương.
Với sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và chủ tịch hồ chí Minh,
chỉ trong một thời gian ngắn ta đã xây dựng được “một nước Việt
nam thu nhỏ” giữa núi rừng Việt Bắc. Mặt trận, các tổ chức đoàn
thể được củng cố đã phát huy hiệu lực, động viên sức dân phục vụ
sự nghiệp kháng chiến; phát triển thêm nhiều tổ chức cơ sở đảng và
đội ngũ đảng viên; đẩy mạnh tăng gia sản xuất; chăm lo xây dựng
hệ thống trường học, phát triển mạnh các lớp bình dân học vụ, xóa
nạn mù chữ, xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh, phong phú;
lực lượng vũ trang phát triển trước Thu - Đông 1947 đã có 7 trung
đoàn bộ binh và 4.288 dân quân, du kích tập trung . ngoài ra,
1
còn có lực lượng tự vệ của các thị xã, thị trấn, công xưởng. các địa
phương, cấp xã có từ 1-2 trung đội du kích, dân quân tự vệ; huyện,
thị xã có từ 2-3 trung đội, tỉnh có từ 2-3 đại đội du kích thoát ly
sản xuất. Từ khu tới tỉnh đều thành lập các “Ban phá hoại” để phá
hủy các công trình kiên cố, cầu đường, các công sở chính trị, quân
sự của địch; đào hố chôn mìn, cắm chông, dựng sào tre vót nhọn ở
những nơi địch có thể nhảy dù hoặc qua lại. các tỉnh, huyện, xã
1. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt nam: Tóm tắt các chiến
dịch trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), nxb. Quân đội
nhân dân, hà nội, 2000, tr.14.
416