Page 1014 - DIA CHI TUYEN QUANG
P. 1014
V
2384. VÀ Man, phủ Yên Bình, xứ Tuyên
Túi đeo tự đan của người Tày, Quang. Cuối thế kỷ XIX, Phố
được mang theo thường xuyên Nghi (đổi tên từ Phố Nghe) thuộc
bên người để đựng trầu cau, dao, tổng Thổ Bình, châu Chiêm
vôi, vỏ (đối với những người quen Hóa, phủ Tương An, tỉnh Tuyên
ăn trầu), các vật dụng nhỏ cần Quang. Đầu thế kỷ XX, xã Vạn
mang theo khi đi rừng, đi nương Luộc (đổi tên từ Phố Nghi), thuộc
hoặc đi chơi, đi chợ. Và dùng cho tổng Vĩnh Gia, châu Chiêm Hóa.
cả nam giới, nữ giới mọi lứa tuổi. Thời kỳ Cách mạng Tháng
Và được đan từ vỏ dây sắn rừng Tám năm 1945, xã Vạn Luộc
(loại dây có lông, màu tím nhạt, thuộc tổng Vĩnh Gia, châu Khánh
chọn dây bánh tẻ). Dây sắn rừng Thiện, tỉnh Tuyên Quang. Năm
được đồng bào lấy về, sau đó tước, xe 1946, xã Vạn Luộc và xã Lộc Thị
thành từng sợi nhỏ rồi đan. Và được sáp nhập thành xã Vĩnh Lộc,
tạo ra bằng kim và lối đan móc như huyện Chiêm Hóa.
đan lưới, có một quai để đeo lên vai. 2386. NGUYỄN SÁNG VANG
Kim đan được làm bằng tre hoặc Sinh năm 1957, quê quán:
kim loại, cùng một que nhỏ (đường xã Lăng Can, huyện Lâm Bình,
kính 1 mm, dài khoảng 20 cm) tỉnh Tuyên Quang. Dân tộc Tày.
dùng để tạo mắt, tạo đường thẳng Tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp.
và cố định mũi kim. Trước đây, phụ Thạc sĩ quản lý kinh tế.
nữ Tày ai cũng biết đan, tự đan và
để dùng cho gia đình. Cán bộ Ban Nông Lâm nghiệp
huyện Na Hang, tỉnh Hà Tuyên
2385. VẠN LUỘC (1982-1986); Giám đốc Công
Xã cũ. Đầu thế kỷ XIX, là Phố ty Dịch vụ nông nghiệp huyện
Nghe, tổng Thổ Hoàng, châu Đại (1986-1989); Phó Chủ tịch Ủy