Page 191 - TQ - Thu do khu giai phong trong CMT8
P. 191
Trước yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong điều kiện mới do
sự biến chuyển mau lẹ của tình hình trong nước và quốc tế,
ngày 15-5-1945, lễ hợp nhất các lực lượng vũ trang cách mạng
Việt Nam được tổ chức. Theo đó, Cứu quốc quân và Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân được thống nhất thành lực lượng
bộ đội chủ lực, lấy tên là Việt Nam giải phóng quân. Như vậy,
đến Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, Đảng ta đã chuẩn
bị được một lực lượng vũ trang cách mạng khá đông và rộng rãi.
Cùng với sức mạnh áp đảo về chính trị, lực lượng vũ trang đã
góp phần quan trọng đưa sự nghiệp khởi nghĩa vũ trang của
toàn dân đến thắng lợi.
Bên cạnh việc xây dựng lực lượng vũ trang, Đảng ta còn
chú trọng chuẩn bị căn cứ địa cách mạng để làm chỗ dựa cho
khởi nghĩa vũ trang. Tại Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-
1941), Trung ương Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã quyết
định lấy miền núi rừng Việt Bắc để xây dựng căn cứ địa, trước
hết là xây dựng hai căn cứ địa Cao Bằng và Bắc Sơn - Võ Nhai,
rồi từ đó phát triển xuống Thái Nguyên và các vùng khác.
Trong cao trào kháng Nhật, cứu nước, chuẩn bị Tổng khởi
nghĩa, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đề ra những công việc
cần kíp, trong đó có việc thành lập các căn cứ địa mới, thống
nhất các chiến khu. Theo đó, 7 chiến khu chống Nhật được xây
dựng: Lê Lợi, Quang Trung, Hoàng Hoa Thám, Trần Hưng Đạo
(Bắc Bộ); Trưng Trắc, Phan Đình Phùng (Trung Bộ) và Nguyễn
Tri Phương (Nam Bộ).
Ngày 4-6-1945, Khu giải phóng Việt Bắc ra đời, gồm các
tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang,
Thái Nguyên. Tân Trào (huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang)
được chọn làm Thủ đô của Khu giải phóng. Khu giải phóng Việt
Bắc chính là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới.
193