Page 190 - TQ - Thu do khu giai phong trong CMT8
P. 190

10-1930) của  Đảng, ngoài  việc xác  định "lập  đội quân công
                             nông", còn đề ra nhiệm vụ "tổ chức đội tự vệ của công nông" và
                             khi vũ trang giành chính quyền là "võ trang cho công nông".
                             Với chủ trương đó, trong phong trào Xôviết Nghệ - Tĩnh, các
                             đội "tự vệ đỏ" đã ra đời, làm nòng cốt cho các cuộc đấu tranh
                             của đông đảo quần chúng.
                                 Từ các đội vũ trang nhỏ lẻ ban đầu, dưới sự lãnh đạo của
                             Đảng, lực lượng vũ trang từng bước lớn mạnh. Từ các cuộc khởi

                             nghĩa, lực lượng vũ trang địa phương lần lượt ra đời. Cuộc khởi
                             nghĩa Bắc Sơn (ngày 27-9-1940) dẫn tới sự ra đời của Đội du
                             kích Bắc Sơn và phát triển thành các đội Cứu quốc quân; cuộc

                             khởi nghĩa Nam Kỳ (ngày 23-11-1940) dẫn tới sự xuất hiện của
                             nhiều tổ chức vũ trang, với tên gọi chung là quân du kích Nam
                             Kỳ... Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941)
                             nhận định: "Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một
                             cuộc khởi nghĩa võ trang" , vì thế, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang
                                                        1
                             là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân.
                                 Ngày 22-12-1944,  Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
                             quân được thành lập. Đây là sự kiện trọng đại trong lịch sử xây

                             dựng lực lượng vũ trang cách mạng và sự nghiệp đấu tranh giải
                             phóng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sự ra đời
                             của lực lượng này dẫn tới sự ra  đời của hệ thống tổ chức lực
                             lượng vũ trang cách mạng gồm ba thứ quân:  Đội Việt Nam
                             tuyên truyền giải phóng quân - quân chủ lực; các đội vũ trang

                             thoát ly ở các tỉnh, châu, huyện và các đội quân địa phương; các
                             đội tự vệ chiến  đấu, tự vệ cứu quốc  ở các làng xã, xí  nghiệp,
                             đường phố - lực lượng bán vũ trang địa phương.

                             ________________

                                 1.  Đảng Cộng sản Việt Nam:  Văn kiện  Đảng toàn tập, Sđd, t.7,
                             tr.129.


                               192
   185   186   187   188   189   190   191   192   193   194   195