Page 24 - Tuyên Quang 30 năm đổi mới và phát triển
P. 24
Tuyên Quang
30 NĂM ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN (1991-2021)
nghiệp còn nhiều; điện lưới quốc gia đã về đến một nửa số huyện
trong tỉnh. Tỉnh có nhiều di tích lịch sử cách mạng và danh lam
thắng cảnh, thuận lợi phát triển du lịch. Tiềm năng về thủy điện và
công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến nông, lâm sản và khoáng
sản của tỉnh khá phong phú.
Bên cạnh những thuận lợi trên, Tuyên Quang vẫn là tỉnh nghèo,
không ít khó khăn: kinh tế phát triển chậm, trình độ sản xuất thấp
kém và mang nặng tính tự cung tự cấp. Thế mạnh về cây công nghiệp,
chăn nuôi chưa được khai thác tốt, đất trống, đồi núi trọc còn nhiều.
Công nghiệp chưa phát triển, chỉ chiếm 14% giá trị tổng sản phẩm
xã hội; thu nhập bình quân đầu người thấp hơn mức bình quân của
cả nước. Lưu thông chưa phục vụ tốt yêu cầu thúc đẩy sản xuất hàng
hóa; kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển sản xuất
kinh doanh và đời sống nhân dân trong tỉnh. Thu ngân sách trên địa
bàn chỉ bảo đảm được 25-30% nhu cầu chi thường xuyên. Đời sống
nhân dân trong tỉnh gặp nhiều khó khăn. Sự lãnh đạo, quản lý của
cấp ủy, chính quyền các cấp trong chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa
tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường còn lúng túng.
Trình độ của nhiều cán bộ, đảng viên chưa đáp ứng được yêu cầu của
tình hình nhiệm vụ đặt ra; còn một bộ phận giảm sút ý chí chiến đấu,
ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng .
1
Tình hình đó đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân Tuyên Quang
những nhiệm vụ hết sức nặng nề, đó là phải tập trung giải quyết
những vấn đề cấp bách trước mắt, đồng thời phải nghiên cứu các chủ
trương, biện pháp cho sự phát triển lâu dài, toàn diện, nâng cao đời
sống nhân dân.
Trên cơ sở mục tiêu chiến lược của Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII của Đảng; để đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn
1. Xem Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang: Lịch sử Đảng bộ
tỉnh Tuyên Quang (giai đoạn 1976-2005), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2009, tr. 192-193.
26