Page 98 - Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1976 - 2005)
P. 98
trung vật tư, tiền vốn xây dựng các công trình phòng tuyến,
di chuyển các huyện lỵ biên giới về tuyến sau, huy động
phương tiện vận tải tổ chức nhiều đợt vận chuyển hàng quốc
phòng, lương thực, thực phẩm, vật tư nông nghiệp cho vùng
cao, biên giới; động viên lực lượng của các ngành phục vụ
việc tổ chức lại dân cư, bố trí lại sản xuất, đầu tư xây dựng cơ
sở vật chất phục vụ chiến đấu, sản xuất, đời sống để quân dân
trụ lại lâu dài vừa sản xuất vừa chiến đấu ở tuyến biên giới
trong mọi tình huống. Nhân dân các dân tộc trong tỉnh đóng
góp hàng chục triệu ngày công, hàng trăm tấn lương thực,
thực phẩm xây dựng 7 công trình phòng tuyến biên giới, với
nhiều hầm hào, công sự kiên cố, mở nhiều đường giao thông
và đường điện thoại, xây dựng kho dự trữ, hệ thống bể nước
ăn, hàng trăm nhà ở khung thép, hàng chục ngàn phản nằm,
phục vụ cho yêu cầu chiến đấu. Chỉ trong ba năm 1983-1985,
tỉnh đã làm mới và nâng cấp được 567 km đường ô tô, 361
km đường dây thông tin, 102 gian kho dự trữ, hàng ngàn nhà
điểm tựa, 20 km đường ống dẫn nước. Đồng bào các dân tộc
trong tỉnh, chủ yếu là ở các huyện tuyến sau đã đóng góp vào
các công trình này trên 11.000.000 đồng, 522 tấn thóc, 524
con trâu, bò và trên 4,7 triệu ngày công lao động.
Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh uỷ về tăng cường củng cố
tuyến phòng thủ biên giới, tại kỳ họp bất thường tháng 4-
1983, Hội đồng nhân dân tỉnh đã ra Nghị quyết tổ chức cuộc
vận động cán bộ, công nhân viên chức và nhân dân tham gia
đóng góp xây dựng tuyến phòng thủ biên giới. Đến tháng 3-
1984, toàn tỉnh đã đóng góp được gần 5 triệu đồng, 494 con
trâu, bò, 527 tấn lương thực, trong đó huyện Mèo Vạc là đơn
100