Page 83 - Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1976 - 2005)
P. 83
so với kế hoạch: diện tích gieo trồng tăng 8%, năng suất tăng
9%, sản lượng lương thực quy thóc tăng 17%, riêng sản
lượng thóc tăng 770 tấn so với đông xuân 1981-1982.
Kết quả và kinh nghiệm ở các hợp tác xã điểm được nhiều
nơi trong tỉnh vận dụng. Năm 1984, năng suất lúa, ngô (cả
vùng thấp và vùng cao) đều tăng; tổng sản lượng lương thực
quy thóc toàn tỉnh đạt 258.016 tấn (tăng 12.000 tấn so với
năm 1983), đến năm 1985 đạt 270.735 tấn, vượt 735 tấn so
với kế hoạch và tăng hơn 80.000 tấn so với năm 1980. Mặc
dù dân số tăng thêm 90.000 người, nhưng bình quân lương
thực quy thóc vẫn đạt 304 kg/người/năm (tăng 66
kg/người/năm so với năm 1980). Cây công nghiệp, cây thực
phẩm và chăn nuôi tiếp tục phát triển. Năm 1985 so với năm
1983: diện tích lạc tăng 24,2%, đậu tương tăng 11,5%; đàn bò
đạt 102% và đàn ngựa tăng 13% so với mục tiêu Đại hội
Đảng bộ đề ra.
Về sản xuất lâm nghiệp, đến năm 1983 tỉnh đã đạt được
những kết quả ban đầu trong tổ chức lại sản xuất, gắn đất đai
với lao động, xây dựng quyền làm chủ trên tài nguyên rừng
và đất rừng, bước đầu xác định được lâm phần giữa quốc
doanh và tập thể, giao đất, giao rừng cho hợp tác xã và gia
đình kinh doanh. Đã xây dựng được lực lượng kinh tế lâm
nghiệp quốc doanh với 16 lâm trường và 14 trạm, có trên 1,4
vạn công nhân, quản lý và sản xuất kinh doanh 255.164 ha
rừng; giao 37.177 ha rừng và đất rừng cho 455 hợp tác xã,
72.081 hộ gia đình quản lý và kinh doanh. Đã xây dựng được
một số hợp tác xã điển hình về tổ chức lại sản xuất theo
hướng nông - lâm kết hợp. Tuy vậy, sản xuất lâm nghiệp
85