Page 66 - Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1976 - 2005)
P. 66
hợp với các điều kiện thực tế.
Ba là: Thực hiện công tác khoán trong hợp tác xã và đội
sản xuất, bảo đảm mục đích phát triển sản xuất và nâng cao
hiệu quả kinh tế, củng cố và tăng cường quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa ở nông thôn, không ngừng nâng cao thu nhập
và đời sống xã viên, tăng tích lũy của hợp tác xã, làm tròn
nghĩa vụ và không ngừng tăng khối lượng nông sản cung ứng
cho Nhà nước. Khi thực hiện khoán phải đảm bảo 5 nguyên
tắc khoán, đồng thời phải kiên quyết loại trừ hiện tượng
“khoán trắng” và chống tư tưởng bảo thủ, sợ khoán sai.
Bốn là: phải tăng cường, củng cố bộ máy Ban Nông
nghiệp tỉnh, Ban quản lý hợp tác xã thuộc Sở Nông nghiệp và
Lâm nghiệp, các ban nông - lâm huyện.
Thực hiện nghị quyết, tỉnh đã chọn ba điểm tại Sơn Dương,
Yên Sơn và thị xã Tuyên Quang làm điểm chỉ đạo, phân công
các đồng chí thường vụ và tỉnh uỷ viên trực tiếp chỉ đạo các
huyện; các huyện từ Vị Xuyên trở xuống Sơn Dương (8 huyện)
đều chọn điểm để làm thử. Các cơ quan chức năng có hướng
dẫn cụ thể đối với cơ sở, các ngành, các cấp trong tỉnh tổ chức
học tập, quán triệt Chỉ thị 100 của Ban Bí thư và Nghị quyết 01
của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ của
ngành nông nghiệp và cán bộ chủ chốt cấp huyện, xã. Trong vụ
đông xuân 1981, có 27 hợp tác xã với 73 đội sản xuất tiến hành
làm thí điểm về khoán sản phẩm đối với cây lúa cho nhóm và
người lao động. Tháng 9-1981, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tổ chức
sơ kết bước làm điểm công tác khoán sản phẩm sau vụ sản xuất
đông xuân 1980-1981 để rút kinh nghiệm và chỉ đạo ra diện
rộng vào vụ mùa 1981. Từ thực tiễn rút ra tại các hợp tác xã làm
điểm, ngày 6-8-1981, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã có Công văn
68