Page 61 - Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1976 - 2005)
P. 61
vững chắc hậu cần tại chỗ, tăng thêm hàng xuất khẩu, ổn định
đời sống bộ đội, cán bộ công nhân viên và nhân dân các dân
tộc.
3. Thường xuyên làm tốt công tác xây dựng Đảng, phát
huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Củng cố cơ sở
Đảng, chính quyền, các lực lượng vũ trang nhân dân và các
đoàn thể quần chúng. Trước mắt chú trọng kiện toàn các cơ
quan tỉnh, huyện và cơ sở, nhất là vùng trọng điểm, địa bàn
xung yếu về mọi mặt, tăng cường đoàn kết trong Đảng, đoàn
kết quân dân, đoàn kết các dân tộc.
Mục tiêu phấn đấu đến cuối năm 1982 là: Tổng sản lượng
lương thực quy thóc 23 vạn tấn, tỷ lệ màu 45%, bình quân
lương thực đầu người 280 kg; trồng 4.000 ha đậu tương với
sản lượng 1.200 tấn, 6.000 ha chè (trồng mới 500 ha) sản
lượng chè búp tươi 4.500 tấn, 1.090 ha nghệ, 1.000 ha sả
(trồng mới 400 ha), 600 ha mía, 240 ha dược liệu, trồng mới
6.000 ha rừng. Chăn nuôi 15 vạn con trâu, 28 ngàn con bò, 28
vạn con lợn. Sản xuất 11 triệu kw/giờ điện, 30 triệu viên
gạch, 5.000 tấn xi măng, 1.000 tấn bột kẽm, khai thác 3 vạn
mét khối gỗ tròn. Thu mua 15.000 tấn lương thực, 1.500 tấn
lợn hơi, 1.000 tấn thịt trâu bò, 400 tấn đậu tương, 2.500 tấn
rau xanh, giá trị hàng xuất khẩu 14 triệu đồng, giao hàng xuất
khẩu 1.500 tấn chè búp khô, 65 tấn dầu sả.
Về nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể của các lĩnh vực, Đại hội
nhấn mạnh: Trong toàn tỉnh phải quán triệt, thực hiện hai
nhiệm vụ thường xuyên là vừa sản xuất, vừa sẵn sàng chiến
đấu và chiến đấu thắng lợi. Các huyện biên giới đặt nhiệm vụ
an ninh, quốc phòng, chiến đấu bảo vệ biên giới lên hàng
63