Page 191 - Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1976 - 2005)
P. 191
Tuyên, hệ thống các cơ quan, chính quyền và đoàn thể nhân
dân từ tỉnh đến cơ sở (3 cấp) đã giảm 42 phòng, ban ở cấp
huyện, 95 phòng ban ở cấp tỉnh, và 1.446 người (khối Đảng
26 người, khối Nhà nước 1.345, khối dân 55). Bộ máy cấp
xã, phường, thị trấn gọn hơn, định xuất cán bộ giảm từ 18
xuống còn 11 người, phụ cấp cán bộ xã tăng so với trước. Ở
cấp tỉnh, các sở, ban, ngành..., chỉ còn một phòng hành
chính tổng hợp, chuyên viên chuyển sang thực hiện chế độ
làm việc trực tuyến; các đơn vị sản xuất kinh doanh chuyển
sang quản lý và hạch toán theo sản phẩm. Bên cạnh kết quả
đạt được, việc bố trí, sắp xếp tổ chức bộ máy, biên chế ở các
cấp theo Nghị quyết 50-NQ/TU của Tỉnh uỷ Hà Tuyên cũng
bộc lộ những bất cập. Đó là việc bỏ nhiệm vụ cấp ngân sách
ở xã, phường là “không chính xác”, cán bộ xã giảm nhưng
đội ngũ này chưa được đào tạo có hệ thống, trình độ hạn
chế, một người phải kiêm nhiệm nhiều việc do vậy nắm
không sâu, hiệu quả không cao; việc bỏ các ban, phòng giúp
việc của cấp huyện là chưa phù hợp, gây khó khăn cho điều
hành của huyện, thị... Từ thực tế đó, căn cứ Nghị quyết Hội
nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII,
Quyết định 76 của Hội đồng Bộ trưởng, Tỉnh uỷ Tuyên
Quang đã đề ra những điểm cần điều chỉnh, bổ sung là: Xác
định và thực hiện nhiệm vụ cấp ngân sách, tăng biên chế
cho cấp xã. Lập lại Ban Tổ chức và Ban Tuyên giáo của
các huyện, thị uỷ, lập Phòng Nông, Lâm nghiệp thuộc Uỷ
ban nhân dân huyện. Điều chỉnh lại tổ chức bộ máy của
một số ngành thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh...
Quán triệt Nghị quyết số 03 - NQ/TW của Ban Chấp hành
193