Page 357 - Chien thang VB-TD 1947
P. 357
TUYÊN QUANG VỚI CHIẾN THẮNG VIỆT BẮC - THU ĐÔNG 1947
Ở khu vực châu âu, từ năm 1947, Mỹ đưa ra cái gọi là “kế hoạch
Marshall”, thông qua chương trình viện trợ cho các nước Tây âu,
nhằm khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh. Thực chất
của kế hoạch này là nhằm khuất phục các nước Tây âu theo quỹ đạo
quân sự và chính trị của Mỹ, hòng ngăn chặn ảnh hưởng của chủ
nghĩa cộng sản từ Liên Xô đang có nguy cơ thổi bùng ngọn lửa cách
mạng vốn đã được nhen nhúm ngay từ sau chiến tranh thế giới lần
thứ hai ở hàng loạt nước. Vì vậy, đây là một trong những nguyên cớ
để Mỹ phát động cuộc chiến tranh lạnh. Với mưu đồ đó, Mỹ đã gây
sức ép với các nước Tây âu gạt bỏ đại diện của các Đảng cộng sản
ra khỏi chính phủ, điển hình như ở italia, ở Pháp vào tháng 5-1947.
Đó là sự thiệt thòi cho cách mạng Việt nam.
nhằm đáp lại những hành động của Mỹ và các nước Tây âu,
Liên Xô và các quốc gia đứng về phía xã hội chủ nghĩa đã xích lại
gần nhau, với sự đáp trả kịp thời, trước mắt là việc thành lập cục
Thông tin cộng sản (cominform) vào tháng 9-1947. Tại hội nghị,
đại biểu Liên Xô cho rằng, thế giới đã hình thành hai phe. Một
phe do Liên Xô đứng đầu đang chống lại các thế lực đế quốc và tư
bản. Một phe là đế quốc và tư bản, do Mỹ đứng đầu . cominform
1
đã xuất bản tờ tạp chí “Vì một nền hòa bình thực sự, vì một nền
dân chủ nhân dân” bằng tiếng Pháp và tiếng nga. Việc thành lập
cục Thông tin đã thúc đẩy sự phát triển của phong trào cộng sản
quốc tế. Đối với Việt nam, như quan điểm của anatoli Xocolov, nhà
nghiên cứu Việt nam, người nga cho rằng, tín hiệu đầu tiên về
những thay đổi đường lối của Liên Xô đối với Đông Dương là phát
biểu của nhà hoạt động nhà nước và Đảng cộng sản Liên Xô a.
Zđannốp tại hội nghị đại diện các Đảng cộng sản và công nhân
các nước châu âu năm 1947 trên đây, trong đó, ông bày tỏ sự ủng
hộ kiên quyết và dứt khoát cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của
1. Jean-Baptiste Duroselle: Histoire diplomatique de 1919 à nos jours,
1993 (Lịch sử ngoại giao từ năm 1919 đến nay, 1993, tr.474).
358