Page 464 - DIA CHI TUYEN QUANG
P. 464

Từ điển Tuyên Quang                                       465



                   Bình,  châu  Chiêm  Hóa,  phủ               trong  thoi  để  khi  dệt  đan  qua

                   Tương An, tỉnh Tuyên Quang.                 sợi dọc. Để cho sợi dọc luôn được
                                                               căng và ở vị trí đều nhau, đồng
                     Đầu thế kỷ XX, xã Khúc Phụ
                   gồm  9  thôn:  Làng  Niêm,  Làng            bào dùng hai que tre gài vào sợi
                                                               dọc và khung dệt.
                   Khuôn, Làng Mè, Làng Bài, Làng
                   Cuồng,  Bắc  Cập,  Làng  Loay,                 Khi  dệt,  người  thợ  ngồi  thẳng

                   Làng  Nghe,  Làng  Râm  và  động            trên  ghế,  buộc  vào  lưng  một  cái
                   Khúc Phụ thuộc tổng Thổ Bình,               đai nối với trục quấn vải đặt ngang

                   châu  Chiêm  Hóa.  Trước  năm               bụng làm căng mặt vải, chân đạp
                   1945 đổi tên thành xã Tân Hưng.             vào bàn đạp để kéo go lên xuống

                   Nay thuộc địa bàn xã Hùng Mỹ,               v.v.. Các thao tác dệt vải phải tiến
                   huyện Chiêm Hóa.                            hành liên tục, nhịp nhàng.


                     1079. KHUNG CỬI                              1080. KHUỔI BỐC

                     Công  cụ  dùng  để  dệt  vải  của            Địa điểm khảo cổ học thời tiền
                   người  Kinh,  Tày...  Khung  cửi            sử  thuộc  loại  hình  thềm  sông,

                   được  làm  bằng  loại  gỗ  tốt  như         thềm bậc I của sông Gâm, là một
                   lát, đinh, phay và tre; hoạt động           trong những nơi cư trú của cư dân
                   theo nguyên tắc cò nâng, đưa thoi           thuộc văn hóa Hòa Bình. Khuổi

                   bằng tay, chân đạp.                         Bốc (cg. suối cạn, theo tiếng địa
                                                               phương) thuộc bản Khuổi Bốc, xã
                     Khung cửi hình chữ nhật, dài              Xuân  Tân,  nằm  bên  bờ  tả  ngạn

                   220 cm, rộng 120 cm, cao từ 120             sông Gâm, đối diện bản Bắc Giòn I
                   cm đến 150 cm; gồm các bộ phận              bên bờ hữu ngạn. Tại bến thuyền

                   chủ yếu: hệ thống giăng sợi, chỗ            Khuổi Bốc, do người dân đào đãi
                   người  ngồi  điều  khiển,  bàn  đạp         vàng làm nhiều đoạn thềm bị sụt
                   chân  để  nâng  go,  lược  đập  sợi,        lở, đã xuất lộ mặt cắt một dải thềm

                   bộ phận cuộn vải sau khi dệt, go            bậc I cao 10-15 m so với mặt nước
                   chính,  go  phụ,  que  chia  sợi  và        sông. Phần trên của địa tầng bậc

                   thoi đưa sợi ngang. Sợi được căng           thềm là lớp đất phù sa dày 2-3 m,
                   từ phía trước người ngồi, vòng lên          tiếp  xuống  là  tầng  cuội  kết  dày
                   phía trên đầu khung dệt rồi cuộn            2-3 m, dài gần 40 m, dưới cùng

                   lại.  Sợi  dọc  luồn  qua  hai  go  và      là đất phù sa lẫn cuội sỏi. Dưới
                   lược  dập.  Sợi  ngang  cuộn  thành         chân  ta  luy  sạt  lở  đã  phát  hiện

                   ống nhỏ bằng ngón chân cái, đặt             22 di vật đá đẽo, do lăn rời xuống
   459   460   461   462   463   464   465   466   467   468   469