Page 138 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 138
phát huy truyền thống cách mạng của quần chúng nhân dân là yếu tố quan
trọng hàng đầu giữ vững ổn định, phát triển của phong trào cách mạng.
Thời kỳ 1954 - 1960 là thời kỳ Tuyên Quang chuyển từ chiến tranh sang
hoà bình; chuyển từ hậu phương kháng chiến chống Pháp sang là một tỉnh nằm
trong miền Bắc hoà bình, đi lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương lớn của cuộc
kháng chiến chống Mỹ,cứu nước; chuyển từ nền kinh tế tiểu nông lạc hậu, tự
cấp, tự túc sang thời kỳ xây dựng nền kinh tế có kế hoạch với kế hoạch sản xuất
mới dựa trên hai hình thức sở hữu chủ yếu là sở hữu toàn dân. Bước chuyển đó
diễn ra trong hoàn cảnh có nhiều khó khăn chủ quan và khách quan.Nhiệm vụ
mới đặt ra,song điều kiện vật chất, tinh thần để thực hiện chưa đủ. Đó chính là
lúc tư tưởng, hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc cần được
phát huy cao độ để tạo sức mạnh đưa ra phong trào cách mạng vượt qua khó
khăn.
Từ 1954 đến 1960, thời gian không dài, nhưng Đảng bộ và nhân dân tỉnh
nhà đã phải vượt qua nhiều khó khăn, thử thách: nạn đói kéo dài từ năm 1954 tới
cuối năm 1955; âm mưu của địch nhằm phá hoại, kích động, lôi kéo một số giáo
dân hồi cư về quê cũ hoặc di cư vào Nam; và sự chống đối của các phần tử phản
động. Bên cạnh đó là những non kém về công tác chính trị tư tưởng, kinh
nghiệm lãnh đạo của cấp uỷ đảng và chính quyền các cấp khi bước vào giai đoạn
cách mạng mới. Thực tế, sau tháng 5-1954, có lúc chúng ta không lường trước
được những diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên sau khi kết thúc chiến
tranh, do vậy, phong trào chung có những lúc chững lại. Trước tình hình trên,
Đảng bộ tỉnh đã kịp thời nắm bắt được tình hình, tổ chức thực hiện các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng, triển khai sâu rộng công tác chính trị tư tưởng,các đợt sinh
hoạt chính trị, các cuộc vận động quần chúng. Do đó đã giúp cán bộ, đảng viên
và nhân dân vượt lên khó khăn và thử thách, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của
giai đoạn cách mạng mới.
Hai là, luôn nắm vững đặc điểm tình hình của địa phương, tìm tòi, thử
nghiệm, xác định bước đi phù hợp cho từng vùng, từng dan tộc theo định hướng
chung của Đảng.
Cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ tất yếu của thời kỳ quá độ lê chủ
nghĩa xã hội, là cả một quá trình đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt. Nó đã sớm
trở thành phong trào của quần chúng và thu được kết quả là nhờ Đảng bộ tỉnh
đánh giá đúng tương quan lực lượng, sự phân hoá giai cấp ở địa phương, xu thế
đi lên chủ nghĩa xã hội của quần chúng. Mặt khác, đã quán triệt và thực hiện
đường lối giai cấp của Đảng trong cải tạo xã hội chủ nghĩa; xác định và thực
hiện tốt phương châm chủ đạo "vừa làm vừa rút kinh nghiệm và đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, mạnh dan, khẩn trương nhưng vững chắc, không dè dặt, cũng
không hấp tấp, nóng vội".
Ngay ở thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng bộ tỉnh đã thấy rõ
một đặc điểm nổi bật của tỉnh là có nhiều dân tộc, trình độ mọi mặt của các dân
tộc có sự khác nhau. Do vậy, việc rút ngắn khoảng cách về trình độ mọi mặt
giữa các dân tộc là vấn đề có tính chiến lược, cấp bách. Nhưng thực hiện được là
138