Page 263 - Truyen-thong-BTG
P. 263
2. Sản xuất nông, lâm nghiệp hàng hóa, xây dựng
nông thôn mới
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng bình
quân 4,17%/năm; sản lượng lương thực đạt trên 33 vạn tấn,
đảm bảo an ninh lương thực trên địa bàn. Các vùng sản xuất
hàng hóa phát triển về quy mô và có sự chuyển biến tích cực,
hướng tới sản xuất an toàn, nâng cao chất lượng sản phẩm
gắn với nhu cầu thị trường; chăn nuôi tiếp tục phát triển
theo hướng trang trại, gia trại, đảm bảo an toàn dịch bệnh và
vệ sinh môi trường. Tập trung phát triển thủy sản, quy mô
nuôi cá lồng trên sông, trên hồ thủy điện ngày càng phát
triển, tăng dần tỷ trọng nuôi cá đặc sản. Sản xuất lâm
nghiệp được quy hoạch và phát triển đạt kết quả tốt, tỷ lệ
che phủ của rừng đạt 65% và sản lượng khai thác, chế biến
từ gỗ rừng trồng dẫn đầu cả nước; cấp chứng chỉ rừng theo
tiêu chuẩn FSC được 25.366 ha. Sản lượng khai thác gỗ rừng
trồng trong 5 năm đạt trên 4 triệu m , đáp ứng nguyên liệu
3
cho phát triển công nghiệp chế biến gỗ. Toàn tỉnh có 830
trang trại, tăng 472 trang trại so với năm 2015 và 267 hợp
tác xã nông nghiệp, tăng 98 hợp tác xã so với năm 2015, có
trên 50 nhãn hiệu nông sản hàng hóa; trên 100 cơ sở, hộ gia
đình có sản phẩm hàng hóa gắn tem truy xuất nguồn gốc,
đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phục vụ sản xuất nông
nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn được quan tâm đầu tư
xây dựng theo phương châm “Nhân dân làm, Nhà nước hỗ
trợ”, đã thực hiện kiên cố hóa 944,87 km kênh mương; xây
dựng 550 công trình nhà văn hóa xã, thôn, tổ dân phố;
265