Page 175 - Truyen-thong-BTG
P. 175

Về quân sự: Đảng bộ Tuyên Quang coi việc xây dựng lực
                           lượng vũ trang là kháng chiến quyết liệt hiện tại. Để chống
                           lại sự phong toả của địch, để nâng cao đời sống cho nhân dân,
                           chủ trương trước hết của ta là tự cấp, tự túc về ăn mặc, về
                           nguyên liệu và sản phẩm cần thiết cho cuộc kháng chiến. Với
                           sự cần cù, chịu khó và lòng nhiệt tình cách mạng, nhân dân

                           Tuyên Quang hăng hái thi đua sản xuất, phát triển kinh tế
                           để phục vụ cho cuộc kháng chiến lâu dài. Vụ mùa năm 1951,
                           toàn tỉnh cấy  được 51.793 mẫu, thu hoạch 36.255.100 kg
                           thóc, năng suất lúa chiêm so với năm 1950 tăng từ 2 tạ đến
                           2,5 tạ, có nơi tăng từ 3 tạ đến 3,5 tạ/mẫu. Năm 1952, diện

                           tích vụ chiêm tăng hơn hẳn so với năm 1951 (6.775 mẫu);
                           năm 1953 tăng hơn năm 1952 (5.769 mẫu). Năm 1954, diện
                           tích cấy chiêm chính vụ và cấy giống Nam Ninh tăng 3.350

                           mẫu so với năm trước; vụ mùa toàn tỉnh có 58.375 mẫu, tăng
                           năng suất 15%. Chăn nuôi gia súc  ở Tuyên Quang thời kỳ
                           này cũng tăng nhanh: Yên Nguyên (Chiêm Hoá) năm 1953 có
                           963 con trâu, bò, năm 1954 có 1.152 con (tăng 19%); xã Bằng

                           Cốc (Hàm Yên) năm 1953 có 267 con trâu, bò, năm 1954 có
                           323 con (tăng 21%). Nghề thủ công thời kỳ này phát triển
                           khá phong phú. Tính đến tháng 10/1953, Tuyên Quang có 7

                           tổ cán bông, 8 cơ sở dệt chiếu, 49 lò đường, 1 lò thuộc da, 3 cơ
                           sở làm bừa, 41 lò rèn dao, cuốc, xẻng... và 2 lò doanh nghiệp
                           nhà nước sản xuất lưỡi cày, 1 xưởng dệt vải, 2 lò gốm sản
                           xuất bát, chén, nồi, vại..., 1 lò chế cồn sắn, 4 cơ sở sản xuất

                           giấy, 1 lò sản xuất diêm tiêu; v.v.. .
                                                                1
                           _______________

                              1. Xem Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang: Lịch sử Đảng
                           bộ tỉnh Tuyên Quang (1940-1975), Sđd, tr.167-169.


                                                                                           177
   170   171   172   173   174   175   176   177   178   179   180