Page 490 - TQ - Thu do khu giai phong trong CMT8
P. 490
minh tiêu diệt phát xít Nhật. Phát xít Nhật ở Đông Dương bắt
đầu hoang mang, dao động, giảm sút ý chí chiến đấu rõ rệt;
đồng thời, ở trong nước khí thế cách mạng phát triển đến đỉnh
cao, đòi hỏi sự lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng của Trung ương
phải gần hơn với các tỉnh đồng bằng và Thành phố Hà Nội
nhằm nắm bắt kịp thời mọi diễn biến mau lẹ của tình hình
trong nước và thế giới. Vì vậy, ngày 4-5-1945, hai ngày sau
khi Liên Xô giải phóng Béclin, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết
định rời Pác Bó (Cao Bằng) về Tân Trào để chỉ đạo cách mạng
cả nước.
Về địa lợi: Tuyên Quang là tỉnh có vị trí chiến lược quan
trọng, "là phên giậu của Trung châu, cũng là nơi địa đầu
quan yếu" của Tổ quốc: Tân Trào nằm dưới chân núi Hồng,
địa thế hiểm yếu kín đáo, dễ cơ động "tiến khả dĩ công, thoái
khả dĩ thủ", tiến có thể đánh, lui có thể giữ, có đường giao
thông liên lạc thuận tiện, từ đây có thể dễ dàng lui về Bắc
Kạn, Cao Bằng, Thái Nguyên, sang Yên Bái, lên Hà Giang,
khi Nam tiến cũng rất dễ dàng mở rộng xuống Thái Nguyên,
Phú Thọ, Vĩnh Phúc.
Về nhân hòa: Nhân dân các dân tộc Tuyên Quang có
truyền thống đoàn kết, yêu nước, tuyệt đối trung thành với
Đảng, với cách mạng, các cơ sở cách mạng trong vùng được
xây dựng từ sớm, nhân dân hăng hái tham gia Mặt trận Việt
Minh và các tổ chức cứu quốc. Ngày 4-6-1945, Tổng bộ Việt
Minh tuyên bố chính thức thành lập Khu giải phóng, gồm các
tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà
Giang, Lạng Sơn và một phần của các tỉnh Bắc Giang, Phú
Thọ, Vĩnh Yên, Yên Bái. Từ đây, Tuyên Quang trở thành trung
tâm Khu giải phóng, đầu não lãnh đạo cao trào kháng Nhật,
cứu nước và khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Từ
492