Page 400 - TQ - Thu do khu giai phong trong CMT8
P. 400
không chiến và phái chủ chiến yếu ớt. Phái chủ hòa chiếm ưu
thế. Nhân dân nơi nơi muốn vùng lên chống giặc ngoại xâm,
nhưng triều đình nhà Nguyễn bất lực, từng bước đầu hàng thực
dân Pháp. Ngày 5-6-1862, triều đình ký "Hiệp ước hòa bình
hữu nghị" nhượng hẳn cho Pháp ba tỉnh miền Đông lục tỉnh
gồm: Gia Định, Định Tường, Biên Hòa và Đảo Côn Lôn.
Mặc dù nhân dân ba tỉnh miền Đông vẫn đứng lên chống
Pháp, nhưng triều đình nhà Nguyễn chẳng những không ủng
hộ mà còn ngăn cản nhân dân chống giặc ngoại xâ. Đến ngày
24-6-1867, nhà Nguyễn chịu để mất cả ba tỉnh miền Tây là
Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên, vào tay quân Pháp. Sau khi
mất lục tỉnh, vua tôi nhà Nguyễn không rút ra được bài học nào
về trách nhiệm của họ trước thảm họa của dân tộc. Chúng để
mặc cho thực dân Pháp đánh ra đất Bắc. Đối sách của Triều
đình Huế chỉ là hòa nghị và lo đi trấn áp các cuộc khởi nghĩa
của nông dân. Mỗi lần giặc Pháp lấn tới là mỗi lần triều đình
lùi bước. Ngày 19-7-1883, Tự Đức chết. Triều đình Huế lục đục
về việc suy tôn người kế nghiệp. Pháp thừa cơ đánh chiếm
Thuận An. Ngày 25-8-1883, triều đình phải ký ngay tại Huế
"Hiệp ước Hòa bình", còn gọi là Hiệp ước Hácmăng. Đây là hiệp
ước đầu hàng, hoàn toàn thừa nhận Pháp đặt quyền thống trị
trên toàn bộ đất nước Việt Nam. Từ chỗ đầu hàng giặc, triều
đình nhà Nguyễn dần dần trở thành tay sai của bọn đế quốc,
giúp chúng thống trị, bóc lột dân ta.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược, các phong trào chống Pháp
của nhân dân ta liên tục nổ ra. Đầu tiên là các cuộc khởi nghĩa
tự phát của nông dân, của các văn thân, sĩ phu yêu nước. Từ
năm 1858 đến năm 1883 đã diễn ra các phong trào tiêu biểu
như: hoạt động của nghĩa quân Nguyễn Trung Trực (1861); khởi
nghĩa của Trương Định (1861 - 1864); các cuộc khởi nghĩa của
402