Page 378 - TQ - Thu do khu giai phong trong CMT8
P. 378
Đây là sự thay đổi cực kỳ quan trọng trong chỉ đạo chiến
lược cách mạng, là sự giải quyết thành công mối quan hệ giữa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, chứng tỏ tầm trí tuệ cao của
Trung ương Đảng lúc bấy giờ và cũng là để thực thi những
quan điểm của Hồ Chí Minh mà trước đây bị Quốc tế Cộng sản
hiểu sai. Đầu những năm 1920, tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã
nhấn mạnh quan điểm rằng, chỉ có giải phóng được giai cấp thì
mới giải phóng được dân tộc, và hai cuộc giải phóng này đều
phải được đặt trong phạm vi của cuộc cách mạng vô sản. Quan
điểm này của Nguyễn Ái Quốc là hoàn toàn quán triệt tinh
thần của C. Mác. Nhưng đối với cách mạng giải phóng dân tộc
ở Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945 trong giai đoạn trực tiếp đấu
tranh giành chính quyền thì Hồ Chí Minh cùng Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã đảo ngược hai vế của mệnh đề: chỉ
có giải phóng được dân tộc thì mới giải phóng được giai cấp.
Điều này hoàn toàn phù hợp với điều kiện xã hội Việt Nam
thuộc địa - phong kiến, một xã hội mà trong đó tất cả mọi giai
tầng, dù ít, dù nhiều đều có một "mẫu số chung" là mâu thuẫn
dân tộc và đều có nhu cầu thoát khỏi ách áp bức dân tộc (trừ
bọn Việt gian, tay sai bán nước).
Thứ hai, lập Mặt trận Dân tộc phản đế (chống đế quốc). Sau
thời kỳ dân chủ 1936 - 1939, bây giờ nhiệm vụ chống đế quốc
được nổi lên hàng đầu. Đoàn kết thì sống, không đoàn kết là
chết. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã được Đảng Cộng
sản Việt Nam nhận thức rõ và tiến hành lập mặt trận đấu
tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, điển hình ngay sau Hội
nghị Trung ương Đảng tháng 5-1941 là lập Mặt trận Việt Nam
độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Với số lượng khoảng
gần 5.000 đảng viên lại được bổ sung hàng triệu thành viên của
Mặt trận Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
380