Page 27 - TQ - Thu do khu giai phong trong CMT8
P. 27
Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam do Đại hội bầu ra được coi
như tổ chức tiền thân của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Và, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công,
Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam được đổi tên và cải tổ
thành Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, trước khi diễn ra Tổng
tuyển cử bầu Quốc hội vào tháng 1-1946 để Quốc hội bầu ra
Chính phủ. Đặc biệt, Mười chính sách lớn của Việt Minh do
Quốc dân Đại hội ở Tân Trào thông qua được coi như bản hiến
pháp sơ bộ, tạm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
trước khi có bản Hiến pháp năm 1946.
Cùng với sự chuẩn bị về đường lối cách mạng, về lực lượng
chính trị và lực lượng vũ trang, việc xây dựng căn cứ địa cách
mạng để tạo cơ sở, chỗ dựa vững chắc cho mọi mặt chuẩn bị, bảo
đảm tổng khởi nghĩa giành chính quyền thành công cũng giữ
vai trò rất quan trọng. Tại Hội nghị Trung ương 7 (tháng 11-
1940), Đảng ta chọn Bắc Sơn - Vũ Nhai làm căn cứ địa cách
mạng. Sau khi lãnh tụ Hồ Chí Minh trở về nước (ngày 28-1-
1941), tỉnh Cao Bằng được chọn làm căn cứ địa thứ hai của
Đảng. Ngày 4-6-1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập,
gồm sáu tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên
Quang, Thái Nguyên và một số vùng ngoại vi của các tỉnh Bắc
Giang, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Yên Bái. Tuyên Quang được chọn
làm Thủ đô của Khu giải phóng Việt Bắc.
Tuyên Quang được Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh hai lần chọn làm Thủ đô của căn cứ địa cách mạng của cả
nước, đó là Thủ đô Khu giải phóng trong Cách mạng Tháng
Tám và Thủ đô Kháng chiến trong kháng chiến chống thực dân
Pháp, trong đó Tân Trào là trung tâm, là đầu não của Thủ đô
Khu giải phóng và Thủ đô Kháng chiến. Ngoài hai sự kiện trọng
29