Page 216 - TQ - Thu do khu giai phong trong CMT8
P. 216
tính rất mãnh liệt, phản ánh đại biểu của Quốc dân Đại hội
không chỉ giới hạn ở đại diện cho một giai cấp, tầng lớp, mà là
đại diện cho toàn thể dân tộc Việt Nam. Nó mang ý nghĩa rộng
hơn khái niệm nhân dân, công dân. Nó thể hiện ý chí, quyết
tâm chính trị của toàn thể dân tộc trong cuộc cách mạng. Quốc
dân Đại hội bầu ra Ủy ban Dân tộc giải phóng, do Hồ Chí
Minh đứng đầu, được xem như Chính phủ lâm thời. Ngày 25-
8, khi về Hà Nội, Ủy ban Dân tộc giải phóng đã cải tổ thành
Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà
ở đó một số đảng viên cộng sản rút ra nhường chỗ cho các
thành phần không đảng phái, càng làm cho tính đại diện, tính
chính đáng của chính quyền cách mạng lâm thời được tăng
lên. Điều này đã cắt nghĩa lý do vì sao sau Cách mạng Tháng
Tám năm 1945, dù đối diện với hàng loạt thù trong, giặc ngoài,
chính quyền cách mạng vẫn nhận được sự ủng hộ tuyệt đối của
mọi tầng lớp nhân dân, trụ vững và mạnh dần lên. Tổng tuyển
cử bầu Quốc hội khóa I (ngày 6-1-1946) đã mở ra một bước
ngoặt mới, chính thức bầu nên một cơ cấu đại diện thông qua
phổ thông đầu phiếu, trực tiếp của toàn dân trên cả nước.
Thứ ba, Quốc dân Đại hội Tân Trào quyết định lấy Mười
chính sách lớn của Việt Minh thi hành, được xem như một
"Hiến pháp tạm thời" đã thể hiện rõ tính linh hoạt, sáng tạo
trong lãnh đạo cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản ở Việt Nam.
Mười chính sách lớn của Việt Minh rất cô đọng, ngắn gọn
nhưng bao quát những quyền dân chủ cơ bản của con người,
những phương hướng lớn của chính thể dân chủ cộng hòa mà
bất cứ người dân Việt Nam nào cũng dễ chấp nhận được, dễ
nhớ và dễ làm. Có thể xem đó chính là một chủ thuyết phát
triển của thể chế mới để gây ảnh hưởng, tập hợp, đoàn kết
218