Page 115 - TQ - Thu do khu giai phong trong CMT8
P. 115
như vậy là bởi nó đã trải qua một quá trình chuẩn bị dài lâu,
suốt 15 năm kể từ ngày Đảng ta ra đời năm 1930. Xôviết Nghệ -
Tĩnh năm 1930 - 1931, Cuộc vận động dân chủ 1936 - 1939 và
khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940 là ba cuộc diễn tập lớn. Cao trào
cứu nước 1940 - 1945 là bước chuẩn bị trực tiếp và có ý nghĩa
quyết định.
Cách mạng Tháng Tám nổ ra ngay sau khi phát xít Nhật
đầu hàng Đồng minh. Bốn vạn quân Nhật có mặt trên đất nước
ta được trang bị đến tận răng với bộ chỉ huy hùng hổ của nó,
như kẻ đang ngồi trên cành cao mà gốc cây đã bị cưa đổ, cực kỳ
hoang mang, lo lắng. Họ chờ một tín hiệu, không phải từ Thiên
Hoàng mà từ Bộ Chỉ huy cách mạng ở Hà Nội. Ta kêu gọi họ
không can thiệp vào công việc nội bộ của ta, hứa bảo đảm an
toàn cho họ, chờ ngày về nước.
Vua Bảo Đại và Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim, trước
uy thế của cách mạng, nhìn thế cuộc mà lòng rối bời, không biết
số phận sẽ ra sao. Vì đại nghĩa dân tộc và bằng một chính sách
nhân ái, khoan dung, cách mạng đã mở đường cho họ. Vua Bảo
Đại thoái vị, rằng "làm dân một nước tự do hơn là làm vua một
nước nô lệ". Chính quyền bù nhìn bị giải thể, một bộ phận lớn
ngả về phía nhân dân.
Thắng lợi của Tổng khởi nghĩa Tháng Tám là thắng lợi của
một cuộc khởi nghĩa hòa bình, chủ yếu bằng sức mạnh chính trị
của nhân dân. Các lực lượng vũ trang đương nhiên có vị trí rất
quan trọng làm tăng thêm sức mạnh chính trị và uy hiếp kẻ
thù. Kẻ thù đã không thể, không dám và cũng không muốn
dùng bạo lực để chống lại cách mạng. Ta thắng nhanh vì có sức
mạnh áp đảo về chính trị và tinh thần.
Tuy vậy, nói khởi nghĩa Tháng Tám là hòa bình, không đổ
máu thì cũng phải hiểu rằng, đó chính là kết quả cuối cùng của
15 năm đấu tranh đầy xương máu của nhân dân ta.
117