Page 204 - Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1976 - 2005)
P. 204
nước. Tổ chức tiếp dân ở các cấp được kiện toàn, tạo điều
kiện thuận lợi cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ của
mình. Trong nhiệm kỳ 1989-1994, Hội đồng nhân dân tỉnh
đã họp 15 kỳ (trong đó có 6 kỳ chung tỉnh Hà Tuyên và 9 kỳ
của tỉnh Tuyên Quang), ban hành 43 nghị quyết (trong đó có
28 Nghị quyết của Tuyên Quang) về giảm đói nghèo, về
giáo dục, y tế, văn hoá, về trồng rừng... Các nghị quyết đều
đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và bám sát tình hình thực tế,
phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, sớm đi vào cuộc
sống, được các tầng lớp nhân dân đồng tình ủng hộ và thực
hiện có hiệu quả.
Ngày 20-11-1994, trên 33 vạn cử tri trong tỉnh đã đi bỏ
phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ
1994-1999, đạt tỷ lệ 99,32%; toàn tỉnh đã bầu 52 đại biểu Hội
đồng nhân dân tỉnh, 198 đại biểu Hội đồng nhân dân cấp
huyện và 3.259 đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã. Tại kỳ
họp thứ nhất, Hội đồng nhân dân tỉnh đã bầu đồng chí Hà Thị
Khiết, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ làm Chủ
tịch Hội đồng nhân dân tỉnh, bầu đồng chí Lâm Đại Nam, Uỷ
viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ làm Phó Chủ tịch Hội đồng
nhân dân tỉnh, bầu đồng chí Trần Trung Nhật, Phó Bí thư
Tỉnh uỷ làm Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh.
Khi tái lập tỉnh, Uỷ ban nhân dân tỉnh có 7 uỷ viên, đến
tháng 11-1991 được bầu bổ sung 6 uỷ viên nâng tổng số lên
13 uỷ viên, trong đó có 1 Chủ tịch, 3 Phó Chủ tịch. Tỉnh uỷ
lãnh đạo rà soát, sắp xếp lại một số cơ quan ban, ngành cấp
tỉnh và huyện sau tái lập tỉnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
Ngày 20-11-1992, Uỷ ban nhân dân tỉnh ra Chỉ thị Về việc
206